Chuyện
kể của một cựu nhân viên Bộ ngoại giao CSVN
(Phần 1)
Nguyễn Thị Từ Huy
Ông Đặng Xương
Hùng, cựu Lãnh sự CHXHCNVN
tại Genève,
Thụy Sĩ. Photo courtesy of vanews.org
Được biết ông Đặng
Xương Hùng đã từ bỏ tương lai nghề nghiệp trong ngành ngoại giao để
dấn thân đấu tranh cho quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, chúng tôi
thực hiện cuộc trò chuyện với ông để hiểu thêm về cách thức vận
hành và tổ chức của bộ máy quyền lực ở Việt Nam.
Nguyễn
Thị Từ Huy: Trước tiên,
ông có thể cho biết, ông đã đến với ngành ngoại giao như thế nào, là
một lựa chọn cá nhân, hay là tuân theo mong muốn của gia đình…?
Đặng
Xương Hùng: Tôi đến với ngành ngoại giao là do yếu tố
gia đình. Bố và anh trai cả của tôi đều làm ở Bộ Ngoại giao. Bố tôi là bạn của
ông Nguyễn Cơ Thạch, cố Bộ trưởng Ngoại giao. Hai ông là đồng hương với nhau,
quê tại Nam Định, đã cùng nhau làm việc ở Ủy ban kháng chiến liên khu ba (trước
1954). Khi Bộ Ngoại giao được thành lập, ông Thạch đã rủ (hoặc đưa) Bố tôi về
đây làm cùng nhau. Vốn tiếng Pháp của Bố tôi cũng khá.
Tôi vốn học giỏi ở
những môn tự nhiên (toán, lý, hóa) hơn, nên khi thi vào đại học (năm 1978), tôi
đã chọn thi vào Đại học Bách khoa. Lúc đó, đại học Ngoại giao không có trong
danh sách để thi, mà họ đi thu nạp sinh viên từ con em trong ngành, có kết quả
tốt ở các trường đại học khác. Năm đó, tôi được 21 điểm, chỉ thiếu nửa điểm là
đi học ở nước ngoài (đây là sự đáng tiếc, tôi sẽ nhớ đến suốt đời, vì rằng trong
bài thi toán tôi đã có sự nhầm không thể tưởng tượng được, đó là 2:1=1/2, nếu
không nhầm ở đây bài thi toán tôi sẽ có điểm rất cao). Sau đó, đã có một người
của trường Đại học Ngoại giao (anh Nguyễn Hồng Phong) đã đến gia đình tôi,
thuyết phục đưa tôi vào Đại học Ngoại giao. Tất nhiên, gia đình tôi ai cũng
đồng ý, bản thân tôi không thích thú lắm, vì rằng nó đi ngược với ý thích muốn
làm nghiên cứu khoa học của tôi. Tuy nhiên, cuối cùng cậu thanh niên mới có 17
tuổi cũng đã đồng ý theo ý kiến mọi người và cậu ta cũng phải thừa nhận rằng
vào ngoại giao là một diễm phúc và danh giá thời bấy giờ.
Tuy nhiên, khi vào sơ
tuyển tại Đại học Ngoại giao, tôi gặp khó khăn, do ngoại hình của tôi vô cùng
tệ hại, mắt híp bẩm sinh, thấp bé, lúc đó tôi chỉ nặng có 38 kg, ngoại hình này
không thể đủ để vào làm ngoại giao đại diện cho Việt Nam tiếp xúc với người
nước ngoài. Nhưng số phận vẫn muốn đẩy tôi vào với ngành ngoại giao. Câu chuyện
lại một lần nữa liên quan đến ông Nguyễn Cơ Thạch. Năm đó, ông Thạch đang làm
Thứ trưởng, phụ trách trường Đại học Ngoại giao. Khi được nghe báo cáo về
trường hợp của tôi, con ông Đặng Thế Xương, ông Thạch đã nói «Nó bé thì nó sẽ
lớn và sẽ nên người, cứ cho nó vào». Thế là tôi đã trở thành sinh viên trường
Đại học Ngoại giao. Năm 1983, sau khi tốt nghiệp Đại học Ngoại giao, tôi đã
chính thức vào Bộ Ngoại giao, làm ở Vụ Châu Á 2 (phụ trách Lào và Cămpuchia).
Nguyễn
Thị Từ Huy: Trong tư cách
một người làm ngoại giao, hẳn ông đã có nhiều đóng góp? Tại sao ông
không tiếp tục đóng góp qua con đường ngoại giao mà lựa chọn từ bỏ
hệ thống, nghĩa là lựa chọn một cuộc sống bấp bênh và cả nguy hiểm
nữa?
Đặng
Xương Hùng: Thật lòng, theo cách nghĩ của tôi, tôi đóng
góp không nhiều cho ngành ngoại giao và cho đất nước. Tôi chỉ là một công chức
hoàn thành nhiệm vụ. Tôi là một người làm ngoại giao rất xoàng, tầm thường. Ăn
nói không thật trôi chảy, tiếng Pháp, tiếng Anh không thật giỏi. Ngoài ra,
ngoại hình cũng làm tôi trở ngại rất nhiều, nhất là những năm đầu tiên. Tôi
thực sự tự ti về hình ảnh của mình, đã có lúc, khi thấy một số người bạn rời bỏ
ngành ngoại giao, tôi đã có ý định tương tự, nhưng quả thực tôi không có cơ hội
và năng lực cần thiết nào khác để mà có thể từ bỏ được.
Hơn nữa, cùng với năm
tháng, tôi đã tự trả lời cho chính mình câu hỏi tại sao mình không thành công
trong ngành ngoại giao cho lắm. Mình sẽ không thể giỏi lên ở một môi trường mà
mình ít có lòng yêu mến. Điều này thì có phần hơi bào chữa, nhưng vẫn có giá
trị sự thật. Tiếp nữa, là việc có «thành công» ở một cơ quan nhà nước như Bộ ngoại
giao thì ta phải có sự hiểu biết nhất định về «luật chơi» của nó. Những thứ
luật chơi phải là người thật tinh quái mới nhận biết hết được. Hoặc nếu anh
không đủ tinh quái thì chí ít anh phải đủ «hèn» để kìm nén những ý kiến cá
nhân, răm rắp tuân thủ ý kiến lãnh đạo. Cả hai thứ trên tôi đều không có.
Tôi đã nhận thức ra từ
khá lâu rằng Bộ Ngoại giao mới chỉ dừng lại ở chỗ là môi trường để tôi kiếm
ra đồng tiền nuôi sống tôi và gia đình, chứ nó ít là môi trường cho tôi sự
thoải mái. Càng ngày tôi lại càng cảm thấy Bộ Ngoại giao mất dần ký ức đẹp của
nó trong tôi. Có một cái gì đó không thật ổn trong ngành ngoại giao. Những
người tâm huyết vắng dần, đồng nghĩa với việc cán bộ «tinh khôn» tăng dần.
Những cuộc đấu đá, chạy chọt để lên chức, lên quyền, đi luân chuyển nước ngoài ngày
càng trở thành những câu chuyện thường ngày ở Bộ. Những câu nói thật tình chỉ
nghe được ở những buổi chơi golf và những buổi rượu bia bạn bè vui vẻ. Ai cũng
tỏ quan tâm tình hình khó khăn của đất nước, nhưng để chịu suy nghĩ sâu thêm
hoặc thực thi ý nghĩ của mình thì ít người quan tâm thể hiện, hoặc không dám
hoặc chặc lưỡi chấp nhận sự bình yên.
Đó là cái vòng luẩn
quẩn của Bộ Ngoại giao nói riêng và của cả hệ thống nói chung. Người thực sự
yêu ngành nghề của mình hiếm lắm. Cả xã hội đang sống với cảnh nhanh tay kiếm
lợi từ chỗ đứng riêng của mình. Công an, quân đội, bác sĩ, giáo viên, đều như
vậy. Trong một lần phỏng vấn về chuyện visa của các sứ quán bên ngoài, tôi đã
từng ví nó như thể công an giao thông đứng đường ăn chặn lộ phí vậy. Cái tệ hại
của chế độ này là đảng cộng sản muốn mua sự trung thành và ngoan ngoãn của công
chức nhà nước bằng việc ban phát bổng lộc nào đó cho từng ngành nghề, nếu không
ban phát được họ bịt mắt cho qua những tiêu cực ngành nghề mà đó tạo ra. Thí dụ
như họ bỏ qua cho công an những nhũng nhiễu mà công an gây ra cho nhân dân,
thậm chí đổ lỗi là do người dân. Bỏ qua cho giáo viên việc dạy thêm. Bỏ qua cho
bác sĩ trong việc nhận phong bì. Với ngoại giao chúng tôi được họ mua bằng những
chuyến đi công tác nước ngoài và lệ phí visa. Trong bộ chúng tôi hay đùa nhau
rằng, rốt cuộc chỉ là «vấn đề Cămpuchia» (mâu thuẫn nội bộ các sứ quán là vấn
đề chia chác lệ phí visa).
Nguyễn
Thị Từ Huy: Câu chuyện
visa cụ thể là thế nào, thưa ông?
Đặng
Xương Hùng: Chuyện visa, khi tôi tiết lộ những chi tiết
cụ thể, tôi biết những người bạn tôi ở Bộ Ngoại giao chắc sẽ trách tôi nhiều
lắm. Vì rằng chỉ mới ba, bốn năm nay thôi, tôi vẫn còn sống vì nó và kiếm ra
đồng tiền vì nó. Nhưng cái lòng tôi muốn nói ra vì rằng tôi có một người bạn
còn trẻ ở Bộ mới lần đầu ra nước ngoài và khi tiếp xúc với câu chuyện visa, đã
thốt lên rằng: «Thu tiền lệ phí visa như thế làm mất uy tín của Bộ Ngoại giao
quá anh nhỉ». Tôi đã trả lời: «Đi công tác ở sứ quán, không có tiền chia từ
visa, mình không còn thừa ra đồng nào để mà tiết kiệm đâu em ạ. Rồi em sẽ quen
dần thôi». Và vì rằng cả hai chúng tôi đều cùng một ý nghĩ là thà nếu nhà nước
cho chúng tôi hưởng một chế độ tiền lương chính đáng tương đương nào đó, còn
hơn là dành cho chúng tôi một «chế độ mập mờ» để chúng tôi phải «gian dối»
trong lệ phí visa. Nhưng từ lâu tôi đã có câu trả lời cho mình là, do nhà nước
không thể có đủ để cung cấp cho chúng tôi một khoản tiền chính đáng nào đó, nên
họ cho chúng tôi một «mảnh sân» để chúng tôi «tự do trong kín đáo» kiếm thêm để
bù vào. Họ sẽ bịt mắt cho qua.
Câu chuyện visa có thể
tóm tắt như sau:
Bộ Tài chính quy định
một visa có giá là 35 đô la Mỹ. Số tiền này sẽ đưa vào ngân sách nhà nước. Có
chia để lại cho Bộ Ngoại giao một phần. Bảng lệ phí visa theo giá nói trên lẽ
ra phải treo công khai tại nơi làm lãnh sự của các sứ quán. Nhưng nếu chỉ thu
như vậy, các sứ quán chỉ làm «không công» cho nhà nước, tức không có chênh lệch
nào cả. Bộ Tài chính hàng năm có tổ chức đoàn sang kiểm tra các sứ quán nhất là
những sứ quán có số thu lệ phí cao. Tuy nhiên, đấy là cái dịp để các bên đóng
kịch. Sứ quán sẽ đóng kịch bằng việc treo bảng lệ phí visa lên để cho cán bộ
Tài chính trông thấy rồi cất ngay đi. Nộp cho Bộ Tài chính đủ biên lai thu tiền
visa đúng với giá 35 đô la đó.
(Chúng tôi có hai loại
biên lai, một nộp cho Bộ Tài chính, một biên lai cho khách theo giá thực thu,
cái này sẽ hủy đi ngay sau đó). Một lần kiểm tra như vậy cũng là dịp Bộ Ngoại
giao «bồi dưỡng» cho cán bộ tài chính nói riêng và Bộ Tài chính nói chung về
việc cho qua sự việc này. Theo tôi thì các bộ ngành của Việt Nam đều làm như
vậy. Bỏ qua việc làm ăn mập mờ để thu về một «khoản thù lao» nào đó.
Giá thực thu một visa
cho khách ở các cơ quan đại diện ngoại giao mỗi nơi một khác. Ngay cả trong một
nước cũng có khi khác nhau. Thí dụ ở Genève, chúng tôi thu 70 CHF, sứ quán ở
Bern thu 80 CHF. Tại Paris, hình như họ thu 70 euros. Để lý giải cho việc chênh
lệch đó, có cơ quan đại diện bị bí khi bị chất vấn thì giải thích rằng phần chênh
lệch là chi phí hành chính và chi phí xin chấp nhận xuất nhập cảnh từ một công
ty du lịch trong nước. Phần lớn các công ty du lịch làm dịch vụ xin phép nhập
xuất cảnh đều là có chân của Bộ Công an, vì như vậy việc xin phép sẽ được nhanh
hơn.
Tóm lại, nhà nước định
ra một giá cho visa, các sứ quán lẽ ra chỉ được thu như thế hoặc hơn lên đôi
chút về những chi phí hành chính. Nhưng nếu làm như thế cán bộ ngoại giao đi
công tác nước ngoài sẽ không còn có thêm được gì. Đã nhiều năm Bộ Ngoại giao đã
rất muốn điều chỉnh tìm ra một phương cách thu sao cho hợp lý, cho chính đáng
hơn. Nhưng đều bất lực. Cuối cùng, đều chấp nhận nhắm mắt cho qua chấp nhận như
vậy. Cũng là ân huệ mà nhà nước muốn đổi lấy sự trung thành của các cán bộ
ngoại giao và cũng là cách mà các quan chức ngoại giao đủ sống khi ở nước
ngoài. Họ chỉ có lương cơ bản chừng khoảng 500 USD/tháng. Cuối hàng tháng,
chúng tôi dùng phần chênh lệch, chia cho các nhân viên sứ quán. Đây cũng là câu
chuyện gây mâu thuẫn nội bộ do chia chác. Ai được chia, chia tỷ lệ bao nhiêu?
Có những nơi phần chia visa mới là phần quan trọng nhất trong các khoản thu
nhập. Trước khi xin đi luân chuyển, mọi người đều tìm hiểu thu nhập visa ở nơi
đó là bao nhiêu. Có những nơi rất cao ở khoản này, thí dụ ở San Francisco,
Washington, London, Paris… Vậy nên, người ta mới lý giải được tại sao ông Thứ
trưởng Ngoại giao, ủy viên trung ương đảng lại đi làm Tổng Lãnh sự tại San Francisco,
một chức vụ trong ngoại giao chỉ hơn cấp Lãnh sự của tôi một cấp.
Tôi cũng chỉ mong rằng
một ngày nào đó, đất nước thay đổi, để những người đi làm ngoại giao không còn
phải cam chịu những chê trách trong visa, hộ chiếu, thay vào đó là những khoản
thu nhập chính đáng, xứng đáng với công việc và năng lực của họ.
Paris – Genève, tháng
6/2016
N.T.T.H.
– Đ.X.H.
*Nội
dung bài viết không phản ảnh quan điểm RFA.
__._,_.___
Nguyễn Thị
Từ Huy
Ân
huệ của nhà nước đối với ngành ngoại giao (phỏng vấn
Đặng Xương Hùng, phần 1)
Cái khóa của Bộ Ngoại giao (phỏng vấn Đặng Xương Hùng, phần 2)
Ân huệ của nhà nước CSVN đối với
ngành ngoại giao (phỏng vấn Đặng Xương Hùng, phần 1)
Được biết ông
Đặng Xương Hùng đã từ bỏ tương lai nghề nghiệp trong ngành ngoại giao
để dấn thân đấu tranh cho quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam, chúng tôi
thực hiện cuộc trò chuyện với ông để hiểu thêm về cách thức vận
hành và tổ chức của bộ máy quyền lực ở Việt Nam.
Nguyễn Thị
Từ Huy :
Trước tiên, ông
có thể cho biết, ông đã đến với ngành ngoại giao như thế nào, là
một lựa chọn cá nhân, hay là tuân theo mong muốn của gia đình… ?
Đặng Xương
Hùng :
Tôi đến với ngành ngoại
giao là do yếu tố gia đình. Bố và anh trai cả của tôi đều làm ở Bộ Ngoại giao.
Bố tôi là bạn của ông Nguyễn Cơ Thạch, cố Bộ trưởng Ngoại giao. Hai ông là đồng
hương với nhau, quê tại Nam Định, đã cùng nhau làm việc ởỦy ban kháng chiến
liên khu ba (trước 1954). Khi Bộ ngoại giao được thành lập, ông Thạch đã rủ
(hoặc đưa) Bố tôi về đây làm cùng nhau. Vốn tiếng Pháp của Bố tôi cũng khá.
Tôi vốn học giỏi ở những
môn tự nhiên (toán, lý, hóa) hơn, nên khi thi vào đại học (năm 1978), tôi đã
chọn thi vào Đại học Bách khoa. Lúc đó, đại học Ngoại giao không có trong danh
sách để thi, mà họ đi thu nạp sinh viên từ con em trong ngành, có kết quả tốt ở
các trường đại học khác.
Năm đó, tôi được 21 điểm, chỉ thiếu nửa điểm là đi học
ở nước ngoài (đây là sự đáng tiếc, tôi sẽ nhớ đến suốt đời, vì rằng trong bài
thi toán tôi đã có sự nhầm không thể tưởng tượng được, đó là 2 :1=1/2, nếu
không nhầm ở đây bài thi toán tôi sẽ có điểm rất cao). Sau đó, đã có một người
của trường đại học ngoại giao (anh Nguyễn Hồng Phong) đã đến gia đình tôi,
thuyết phục đưa tôi vào đại học ngoại giao.
Tất nhiên, gia đình tôi ai cũng
đồng ý, bản thân tôi không thích thú lắm, vì rằng nó đi ngược với ý thích muốn
làm nghiên cứu khoa học của tôi. Tuy nhiên, cuối cùng cậu thanh niên mới có 17
tuổi cũng đã đồng ý theo ý kiến mọi người và cậu ta cũng phải thừa nhận rằng
vào ngoại giao là một diễm phúc và danh giá thời bấy giờ.
Tuy nhiên, khi vào sơ
tuyển tại đại học ngoại giao, tôi gặp khó khăn, do ngoại hình của tôi vô cùng
tệ hại, mắt híp bẩm sinh, thấp bé, lúc đó tôi chỉ nặng có 38 kg, ngoại hình này
không thể đủ để vào làm ngoại giao đại diện cho Việt Nam tiếp xúc với người
nước ngoài. Nhưng số phận vẫn muốn đẩy tôi vào với ngành ngoại giao. Câu chuyện
lại một lần nữa liên quan đến ông Nguyễn Cơ Thạch.
Năm đó, ông Thạch đang làm
Thứ trưởng, phụ trách trường đại học ngoại giao. Khi được nghe báo cáo về
trường hợp của tôi, con ông Đặng Thế Xương, ông Thạch đã nói « Nó bé thì
nó sẽ lớn và sẽ nên người, cứ cho nó vào ». Thế là tôi đã trở thành sinh
viên trường đại học ngoại giao. Năm 1983, sau khi tốt nghiệp đại học ngoại
giao, tôi đã chính thức vào Bộ Ngoại giao, làm ở Vụ Châu Á 2 (phụ trách Lào và
Cămpuchia).
Nguyễn Thị
Từ Huy :
Trong tư cách
một người làm ngoại giao, hẳn ông đã có nhiều đóng góp ? Tại sao ông
không tiếp tục đóng góp qua con đường ngoại giao mà lựa chọn từ bỏ
hệ thống, nghĩa là lựa chọn một cuộc sống bấp bênh và cả nguy hiểm
nữa ?
Đặng Xương
Hùng :
Thật lòng, theo cách
nghĩ của tôi, tôi đóng góp không nhiều cho ngành ngoại giao và cho đất nước.
Tôi chỉ là một công chức hoàn thành nhiệm vụ. Tôi là một người làm ngoại giao
rất xoàng, tầm thường. Ăn nói không thật trôi chảy, tiếng Pháp, tiếng Anh không
thật giỏi. Ngoài ra, ngoại hình cũng làm tôi trở ngại rất nhiều, nhất là những
năm đầu tiên. Tôi thực sự tự ti về hình ảnh của mình, đã có lúc, khi thấy một
số người bạn rời bỏ ngành ngoại giao, tôi đã có ý định tương tự, nhưng quả thực
tôi không có cơ hội và năng lực cần thiết nào khác để mà có thể từ bỏ được.
Hơn nữa, cùng với năm
tháng, tôi đã tự trả lời cho chính mình câu hỏi tại sao mình không thành công
trong ngành ngoại giao cho lắm. Mình sẽ không thể giỏi lên ở một môi trường mà
mình ít có lòng yêu mến. Điều này thì có phần hơi bào chữa, nhưng vẫn có giá
trị sự thật. Tiếp nữa, là việc có « thành công » ở một cơ quan nhà
nước như Bộ ngoại giao thì ta phải có sự hiểu biết nhất định về « luật
chơi » của nó. Những thứ luật chơi phải là người thật tinh quoái mới nhận
biết hết được. Hoặc nếu anh không đủ tinh quoái thì chí ít anh phải đủ « hèn »
để kìm nén những ý kiến cá nhân, răm rắp tuân thủ ý kiến lãnh đạo. Cả hai thứ
trên tôi đều không có.
Tôi đã nhận thức ra từ
khá lâu rằng Bộ ngoại giao mới chỉ dừng lại ở chỗ là môi trường để tôi kiếm
ra đồng tiền nuôi sống tôi và gia đình, chứ nó ít là môi trường cho tôi sự
thoải mái. Càng ngày tôi lại càng cảm thấy Bộ ngoại giao mất dần ký ức đẹp của
nó trong tôi. Có một cái gì đó không thật ổn trong ngành ngoại giao. Những người tâm huyết vắng dần, đồng nghĩa với việc cán bộ « tinh khôn » tăng dần. Những cuộc đấu đá, chạy
chọt để lên chức, lên quyền, đi luân chuyển nước ngoài ngày càng trở thành
những câu chuyện thường ngày ở Bộ. Những câu nói thật tình chỉ nghe được ở
những buổi chơi golf và những buổi rượu bia bạn bè vui vẻ. Ai cũng tỏ quan tâm
tình hình khó khăn của đất nước, nhưng để chịu suy nghĩ sâu thêm hoặc thực thi
ý nghĩ của mình thì ít người quan tâm thể hiện, hoặc không dám hoặc chặc lưỡi
chấp nhận sự bình yên.
Đó là cái vòng luẩn quẩn
của Bộ ngoại giao nói riêng và của cả hệ thống nói chung. Người thực sự yêu
ngành nghề của mình hiếm lắm. Cả xã hội đang sống với cảnh nhanh tay kiếm lợi từ chỗ đứng riêng của mình. Công
an, quân đội, bác sĩ, giáo viên, đều như vậy. Trong một lần phỏng vấn về chuyện
visa của các sứ quán bên ngoài, tôi đã từng ví nó như thể công an giao thông
đứng đường ăn chặn lộ phí vậy. Cái tệ hại của chế độ này là đảng cộng sản muốn mua
sự trung thành và ngoan ngoãn của công chức nhà nước bằng việc ban phát bổng
lộc nào đó cho từng ngành nghề, nếu không ban phát được họ bịt mắt cho qua
những tiêu cực ngành nghề mà đó tạo ra.
Thí dụ như họ bỏ qua cho công an những
nhũng nhiễu mà công an gây ra cho nhân dân, thậm chí đổ lỗi là do người dân. Bỏ
qua cho giáo viên việc dạy thêm. Bỏ qua cho bác sĩ trong việc nhận phong bì.
Với ngoại giao chúng tôi được họ mua bằng những chuyến đi công tác nước ngoài và lệ phí visa.
Trong bộ chúng tôi hay đùa nhau rằng, rốt cuộc chỉ là « vấn đề Cămpuchia »
(mâu thuẫn nội bộ các sứ quán là vấn đề chia chác lệ phí visa).
Nguyễn Thị
Từ Huy:
Câu chuyện visa
cụ thể là thế nào, thưa ông?
Đặng Xương
Hùng:
Chuyện visa, khi tôi
tiết lộ những chi tiết cụ thể, tôi biết những người bạn tôi ở Bộ ngoại giao
chắc sẽ trách tôi nhiều lắm. Vì rằng chỉ mới ba, bốn năm nay thôi, tôi vẫn còn
sống vì nó và kiếm ra đồng tiền vì nó. Nhưng cái lòng tôi muốn nói ra vì rằng
tôi có một người bạn còn trẻ ở Bộ mới lần đầu ra nước ngoài và khi tiếp xúc với
câu chuyện visa, đã thốt lên rằng : « Thu tiền lệ phí visa như thế làm mất
uy tín của Bộ Ngoại giao quá anh nhỉ ». Tôi đã trả lời : « Đi công
tác ở sứ quán, không có tiền chia từ visa, mình không còn thừa ra đồng nào để
mà tiết kiệm đâu em ạ. Rồi em sẽ quen dần thôi ».
Và vì rằng cả hai chúng tôi đều cùng một ý nghĩ là thà nếu nhà nước cho chúng
tôi hưởng một chế độ tiền lương chính đáng tương đương nào đó, còn hơn là dành
cho chúng tôi một « chế độ mập mờ » để chúng tôi phải « gian dối » trong lệ phí
visa. Nhưng từ lâu tôi đã có câu trả lời cho mình là, do nhà nước không thể có
đủ để cung cấp cho chúng tôi một khoản tiền chính đáng nào đó, nên họ cho chúng tôi một «mảnh sân » để chúng tôi « tự do trong kín đáo » kiếm thêm để bù vào. Họ sẽ bịt mắt cho qua.
Câu chuyện visa có thể
tóm tắt như sau :
Bộ Tài chính quy định
một visa có giá là 35 đô la Mỹ. Số tiền này sẽ đưa vào ngân sách nhà nước. Có
chia để lại cho Bộ Ngoại giao một phần. Bảng lệ phí visa theo giá nói trên lẽ
ra phải treo công khai tại nơi làm lãnh sự của các sứ quán. Nhưng nếu chỉ thu
như vậy, các sứ quán chỉ làm « không công » cho nhà nước, tức không có chênh
lệch nào cả. Bộ Tài chính hàng năm có tổ chức đoàn sang kiểm tra các sứ quán
nhất là những sứ quán có số thu lệ phí cao. Tuy nhiên, đấy là cái dịp để các
bên đóng kịch.
Sứ quán sẽ đóng kịch bằng việc treo bảng lệ phí visa lên để cho cán bộ Tài chính trông thấy
rồi cất ngay đi. Nộp cho Bộ Tài chính đủ biên
lai thu tiền visa đúng với giá 35 đô la đó.
(Chúng tôi có hai loại biên lai, một nộp cho bộ tài chính, một
biên lai cho khách theo giá thực thu, cái này sẽ hủy đi ngay sau đó). Một lần
kiểm tra như vậy cũng là dịp Bộ Ngoại giao « bồi dưỡng » cho cán bộ tài chính
nói riêng và Bộ Tài chính nói chung về việc cho qua sự việc này. Theo tôi thì
các Bộ Ngành của Việt Nam đều làm như vậy. Bỏ qua việc làm ăn mập mờ để thu về
một « khoản thù lao » nào đó.
Giá thực thu một visa
cho khách ở các cơ quan đại diện ngoại giao mỗi nơi một khác. Ngay cả trong một
nước cũng có khi khác nhau. Thí dụ ở Genève, chúng tôi thu 70 CHF, sứ quán ở
Bern thu 80 CHF. Tại Paris, hình như họ thu 70 euros. Để lý giải cho việc
chênh lệch đó, có cơ quan đại diện bị bí khi bị chất vấn thì giải thích rằng
phần chênh lệch là chi phí hành chính và chi phí xin chấp nhận xuất nhập cảnh
từ một công ty du lịch trong nước. Phần lớn các công ty du lịch làm dịch vụ xin
phép nhập xuất cảnh đều là có chân của Bộ Công an, vì như vậy việc xin phép sẽ
được nhanh hơn.
Tóm lại, nhà nước định
ra một giá cho visa, các sứ quán lẽ ra chỉ được thu như thế hoặc hơn lên đôi
chút về những chi phí hành chính. Nhưng nếu làm như thế cán bộ ngoại giao đi
công tác nước ngoài sẽ không còn có thêm được gì. Đã nhiều năm Bộ Ngoại giao đã
rất muốn điều chỉnh tìm ra một phương cách thu sao cho hợp lý, cho chính đáng
hơn. Nhưng đều bất lực. Cuối cùng, đều chấp nhận nhắm mắt cho qua chấp nhận như
vậy. Cũng là ân huệ mà nhà nước muốn đổi lấy sự trung thành của các cán bộ
ngoại giao và cũng là cách mà các quan chức ngoại giao đủ sống khi ở nước
ngoài. Họ chỉ có lương cơ bản chừng khoảng 500 USD/tháng.
Cuối hàng tháng,
chúng tôi dùng phần chênh lệch, chia cho các nhân viên sứ quán. Đây cũng là câu
chuyện gây mẫu thuẫn nội bộ do chia chác. Ai được chia, chia tỷ lệ bao nhiêu ?
Có những nơi phần chia visa mới là phần quan trọng nhất trong các khoản thu
nhập. Trước khi xin đi luân chuyển, mọi người đều tìm hiểu thu nhập visa ở nơi
đó là bao nhiêu. Có những nơi rất cao ở khoản này, thí dụ ở San Fancisco,
Washington, London, Paris…
Vậy nên, người ta mới lý giải được tại sao ông Thứ
trưởng Ngoại giao, ủy viên trung ương đảng lại đi làm Tổng Lãnh sự tại San
Fancisco, một chức vụ trong ngoại giao chỉ hơn cấp Lãnh sự của tôi một cấp.
Tôi cũng chỉ mong rằng
một ngày nào đó, đất nước thay đổi, để những người đi làm ngoại giao không còn
phải cam chịu những chê trách trong visa, hộ chiếu, thay vào đó là những khoản
thu nhập chính đáng, xứng đáng với công việc và năng lực của họ.
Paris – Genève, tháng
6/2016
Cái khóa của
Bộ Ngoại giao (phỏng vấn Đặng Xương Hùng, phần 2)
"...Là người
trong cuộc và thuộc giới hưởng lợi, tôi luôn hằng mong rằng đảng cộng sản sẽ
thay đổi, để lựa chọn đi với thế giới văn minh, từ bỏ ảo tưởng xã hội chủ
nghĩa. Nhưng không, những diễn biến xảy ra trước mắt mình cho thấy, cho tôi tự
rút ra kết luận rằng, cộng sản sẽ không bao giờ thay đổi. Vì vậy, nếu cộng sản
đã khăng khăng quyết tâm như vậy, tôi đã bắt đầu nghĩ đến việc sẽ từ bỏ nó. Như một bài học ta thường được nghe thấy, nếu ta không tự cải tạo
được điều gì thì ta nên rời bỏ nó hoặc tránh xa nó ra. Câu
chuyện đối với tôi, chỉ còn là thời điểm nào tôi sẽ quyết định..." - Đặng Xương Hùng.
Nguyễn Thị Từ Huy
(rfavietnam) - Các chính
sách đối ngoại đã được xây dựng như thế nào ở Bộ Ngoại giao, thưa
ông?
Đặng Xương
Hùng: Cũng như các cơ quan nhà
nước khác, Bộ
Ngoại giao cũng chỉ đơn thuần là cơ quan làm minh họa cho một chính sách đối
ngoại đã có sẵn mà các kỳ đại hội đảng vạch ra.
Các hoạt động đối ngoại hầu như chỉ có tính chất tô vẽ minh họa hoặc phân bua,
ngụy biện bào chữa, đối phó. Những người phát ngôn Bộ Ngoại giao như Nguyễn
Phương Nga, Lê Dũng, Lê Hải Bình, họ đều là những người khá giỏi. Nếu để họ
được nói theo cách của họ, chắc rằng họ sẽ không bị mang tiếng là những
"quan ngại". Như vậy, công việc phân tích độc lập để đề ra những thay
đổi chính sách đối ngoại phù hợp với tình hình không phải là nhiệm vụ chính của
Bộ Ngoại giao.
Đảng và Nhà
nước chưa dành cho Bộ ngoại giao một cơ chế nghiên cứu, phân tích thật sự độc
lập để có thể đề ra một chính sách đối ngoại phù hợp với đất nước và phục vụ
lợi ích của dân tộc, của nhân dân.
Bộ
ngoại giao Việt Nam khác với Bộ ngoại giao các nước văn minh khác. Bộ Ngoại giao
các nước phụ trách toàn bộ công việc đối ngoại của một quốc gia, từ những
hoạt động đối ngoại cụ thể, cho đến việc họ là cơ quan chính nghiên cứu tình
hình, nghiên cứu, phân tích các đối tượng, để đề ra một chính sách đối ngoại.
Trong khi đó,
Bộ ngoại giao Việt Nam nặng về phần làm công việc minh họa cho chính sách đối ngoại của
đảng đã định sẵn. Họ làm công tác nghiên cứu, nhưng mới dừng ở
mức đưa ra những kiến nghị nằm trong một khuôn khổ đã được định hình từ trước
trong chính sách đối ngoại. Phần lớn những kiến nghị của Bộ ngoại giao chỉ mang
tính chất sách lược, nằm ở khâu đề ra giải pháp chứ chưa mang tầm một thay đổi
chiến lược.
Những thay đổi
chiến lược trong lịch sử ngoại giao Việt Nam thường gắn với việc thay đổi xác
định bạn và thù. Thường xảy ra sau một tranh cãi nội bộ của đảng gay gắt. Ví
dụ, như những thay đổi thời hội nghị Thành Đô 1990, mà chính trong các sự kiện
liên quan đến việc thay đổi chiến lược với Trung Quốc trong thời gian này, tiếng nói của Bộ Ngoại giao đã bị gạt ra ngoài, để các tiếng nói của
Ban Đối ngoại Trung ương Đảng và của Bộ Quốc phòng trùm lên.
Những phân tích tình hình thế giới và những bước đi cần thiết của đất nước
trong bối cảnh đối ngoại lúc đó đã được các ông Nguyễn Cơ Thạch, Trần Quang Cơ
phân tích đều không được lắng nghe. Thậm chí, người ta còn gạt ông Thạch đi để
thực thi một đường lối đối ngoại mới.
Như vậy có thể
nói chính sách đối ngoại của Việt Nam còn phụ thuộc rất nhiều về yếu tố ý thức
hệ là chính, tức vẫn còn chịu tác động bởi sự phục vụ cho lợi ích của đảng
nhiều hơn là phục vụ lợi ích dân tộc, lợi ích của người dân. Nếu
để Bộ được quyền nghiên cứu tình hình một cách độc lập, ít nhiều đất nước ta
đã không rơi vào tình trạng lệ thuộc hoàn toàn vào Trung Quốc như hiện nay.
Các mối quan hệ với Mỹ và Phương Tây cũng sẽ được tăng
cường thực chất hơn, nền kinh tế của Việt Nam cũng được phát triển cởi mở hơn.
Nguyễn Thị
Từ Huy: Như vậy là
tương đối rõ ràng: Bộ Ngoại giao thực hiện chính sách đối ngoại do
đảng đề ra và đặt lợi ích của đảng lên trên hết. Điều này hẳn là
một trong những lý do khiến ông rời khỏi Bộ?
Đặng Xương
Hùng: Ngay từ đầu khi mới vào
ngành tôi đã được dạy: Bộ Ngoại giao là
Bộ cộng sản. Câu "Bộ Ngoại giao là Bộ cộng sản"
là câu mà các lãnh đạo Bộ Ngoại giao thường xuyên nhắc tới trong giai đoạn
những năm 1980. Câu nói này lúc đó mang tính tự hào, đề cao vị thế của Bộ Ngoại
giao, là Bộ quan trọng của đảng. Ngày đó yếu tố đảng hết sức quan trọng trong
mọi lĩnh vực. Bộ trưởng Ngoại giao thường là một trong những người đứng đầu
trong Bộ Chính trị của đảng cộng sản Việt Nam, thí dụ như ông Nguyễn Duy Trinh,
ông Nguyễn Cơ Thạch. Những năm đó, cán bộ ngoại giao phải là đảng viên. Muốn
nắm một chức vụ phải là đảng viên. Việc vào đảng
lúc đó cũng khá chặt chẽ và khắt khe.
Sau này, câu
nói trên ít được nhắc đến nữa. Cũng có thể là do yếu tố cộng sản không còn là
một khái niệm mang đến tự hào nữa, nhất là khi khối cộng sản sụp đổ ở Đông Âu,
và sự mất điểm của đảng cộng sản Việt Nam đối với chính dân chúng của mình. Tuy
nhiên, yếu tố đảng vẫn nặng trong các hoạt động đối ngoại. Các báo cáo, đề án
quan trọng của Bộ đều phải qua Bộ Chính trị và Ban Bí thư là chính chứ không
phải báo cáo Thủ tướng chính phủ là chính. Trong những buổi kiểm điểm định kỳ, chúng tôi luôn phải tuyên bố tuyệt đối trung thành với lý tưởng cộng sản.
Việc này, trong những năm gần đây, cùng với hình ảnh đã thay đổi
tệ hại của đảng cộng sản thì nó đã giảm dần ý nghĩa của nó, nhưng nó vẫn là câu
tuyên thệ bắt buộc và vô hình chung nó nhưng một cái khóa, khóa chúng tôi lại
với vòng luẩn quẩn đó.
Khi tôi lựa
chọn từ bỏ, bạn tôi có vài người đã cho tôi là dại. Vì rằng tôi còn một lựa
chọn khác, chờ đến khi trọn vẹn về hưu rồi thì hãy muốn làm gì thì làm, muốn
lên tiếng gì thì lúc đó mới lên tiếng, như lựa chọn của một số công chức nhà
nước hiện nay. Làm như vậy mình được cả đôi đường. Nghe ra, đây là lựa chọn số
đông và bao giờ cũng có phần có lý của họ. Ông Trần Quang Cơ, ông Nguyễn Trung
cũng lựa chọn như vậy. Mà làm như vậy cũng đã để chúng ta rất đáng kính trọng
rồi. Ít ai dám như ông Trần Xuân Bách, ông Nguyễn Cơ Thạch. Các ông đã lựa chọn
được cả, không thì thôi không còn ý nghĩa gì hết, trả về cho gió cuốn đi và chỉ
cần thế là đủ làm các ông mãn nguyện.
Là người trong
cuộc và thuộc giới hưởng lợi, tôi luôn hằng mong rằng đảng cộng sản sẽ thay
đổi, để lựa chọn đi với thế giới văn minh, từ bỏ ảo tưởng xã hội chủ nghĩa. Nhưng không, những diễn biến xảy ra trước mắt mình cho thấy, cho tôi tự
rút ra kết luận rằng, cộng sản sẽ không bao giờ thay đổi.
Vì vậy, nếu cộng sản đã khăng khăng quyết tâm như vậy, tôi
đã bắt đầu nghĩ đến việc sẽ từ bỏ nó. Như một bài học ta thường được nghe thấy,
nếu ta không tự cải tạo được điều gì thì ta nên rời bỏ nó hoặc tránh xa nó ra.
Câu chuyện đối với tôi, chỉ còn là thời điểm nào tôi sẽ quyết định. Một số bạn
bè của tôi đã từng được nghe tôi bày tỏ dự định này của tôi. Cuối cùng tôi đã
đi đến quyết định rằng, khi các anh chị của tôi đã hoàn toàn về hưu, tôi sẽ
thực hiện dự định này, vì rằng trong chế độ cộng sản, họ thường sử dụng chiêu
dùng người nhà làm nhụt chí những ai có ý đồ chống đối.
Tháng 10/2013, khi Quốc hội bỏ phiếu thông qua giữ điều 4 trong
Hiến pháp sửa đổi, và khi ông Nguyễn Phú Trọng thản nhiên tuyên bố chủ nghĩa xã
hội một trăm năm nữa không biết nước ta đã có chưa, thì tôi đã thất vọng hoàn
toàn. Tôi đã quyết định không chần chừ được nữa. Tôi đã tự nhủ với mình rằng,
cũng như một quyết định đi tự tử, nếu bỏ qua giây phút quyết định, mình sẽ không bao giờ quay lại được nữa.
Tôi đã chọn đây là thời điểm hành động. Cũng nên thành thật rằng, tôi có một sự
thuận lợi hơn so với người khác là vợ con tôi lúc đó đã ở Châu Âu được hơn chục
năm rồi.
Paris - Genève,
tháng 6/2016
Nguyễn Thị
Từ Huy
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1