Khi
Mỹ vẽ lại lịch sử cuộc chiến VN
Lữ
Giang
Trong bài “Tất
cả chính trị đều là ‘thực tế’ được giàn dựng”, cựu Dân biểu
Robert Linlithgow đã viết: “Chính
trị được giàn dựng. Nó không phải là thực tế.”
(Politics is staged. It’s not reality). Quả đúng như vậy. Nhìn lại đống tài
liệu về cuộc chiến Việt Nam từ 1954 đến 1975 dày khoảng 150.000 trang đã được
Mỹ giải mã, chúng ta thấy các biến cố quan trọng đều do Mỹ giàn dựng rất công
phu, từ việc lèo lái chính phủ Ngô Đình Diệm đi theo đường lối của Mỹ đến vụ
giết hai tổng thống Ngô Đình Diệm và John Kennedy để đổ quân vào Việt Nam, thực
hiệc mục tiêu của cuộc chiến rồi bỏ rơi Miền Nam… đều đã được tính toán rất tỉ
mỉ và chính xác.
Averell Harriman
(phải), kẻ ra lệnh giết ông Diệm và ông Nhu
Mặc
dầu đống tài liệu được giải mã cao ngất còn nằm sờ sờ trước mắt, tứ 1975 đến
nay, Mỹ đã cho giàn dựng lại cuộc chiến Việt Nam với nhiều tình tiết rất khác
xa với thực tế và sử liệu đã được công bố, để phục vụ cho các chính sách và mục
tiêu từng giai đoạn của Mỹ.
NHỮNG
NỖ LỰC ĐÁNG BUỒN
Có 4 bộ phim giàn dựng lại cuộc chiến VN đã được người Việt hải
ngoại quan tâm và phản đối vì cho rằng không trung thực.
Bộ
thứ nhất: “Vietnam
The Ten Thousand Day War” (Việt Nam cuộc chiến
10.000 ngày) của Michael Maclear phổ biến 1980. Trọn bộ 13 tập.
Bộ thứ hai: “Vietnam:
A Television History” (Việt Nam: một Lịch sử Truyền hình) gồm 13 tập
do hãng WGBH-TV (thuộc PBS) ở Boston phổ biến năm 1983.
Bộ thứ ba: “Last
days in Vietnam” (Những ngày cuối cùng ở Việt Nam) do đạo diễn
Rory Kennedy thực hiện và phổ biến năm 2014.
Bộ thứ tư: “The
Vietnam War” (Cuộc chiến Việt Nam) gồm 10 tập, do hai nhà
đạo diễn Ken Burnes và Lynn Novick thực hiện, PBS mới phổ biến.
Bộ thứ tư này quan trọng nhất, được mấy chục tổ chức tài chánh và
truyền hình Mỹ tài trợ, đứng đầu là BANK
OF AMERICA, Corporation for Public Broadcasting (CPB), The
Public Broadcasting Service (PBS), The Park Foundation, The Arthur Vining Davis
Foundations… Đạo diễn Ken Burns khoe đã phỏng vấn gần 80 nhân chứng, bao gồm cả
những người Mỹ từng tham chiến và những người phản chiến, những người lính
chiến và dân thường của cả hai phía Việt Nam, người thắng và người bại trong
cuộc chiến. Ông nói: Hơn
bốn mươi năm đã trôi qua kể từ khi cuộc chiến kết thúc, chúng ta vẫn chưa thể
quên Việt Nam. Và chúng ta vẫn còn tranh luận
vì sao cuộc chiến này lại đi đến sai lầm,
trách nhiệm thuộc về ai và có đáng có một cuộc chiến như thế này không.”
Như chúng tôi đã nói, những thông tin được thu lợm kiểu này chỉ có
thể được dùng để nói lên cách nhìn của một số cá nhân về cuộc chiến hay đưa tới
những kết luận mà người phỏng vấn muốn, chứ không thể dùng làm sử liệu được, vì
việc chọn người được phỏng vấn nhiều khi thiếu khách quan, những điều họ biết
nhiều khi chỉ là một phần nhỏ của vấn đề và cảm tính thường xen lấn vào…
Ngoài dùng phim ảnh, Mỹ còn tổ chức các cuộc hội thảo để vẽ lại
cuộc chiến Việt Nam.
Trong ba ngày 26, 27 và 28.4.2016, “Hội
Nghị Thượng Đỉnh về Chiến Tranh Việt Nam” (Vietnam War
Summit) đã được Hoa Kỳ tổ chức tại Thư Viện LBJ, Austin, Texas, để vẽ lại lịch
sử cuộc chiến Việt Nam và đưa chế độ Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam vào
thay chỗ của VNCH trước 1975. Nhân vật chính trong hội nghị là cựu Ngoại Trưởng
Kissinger đã tuyên bố: “Không có ai muốn chiến
tranh, không có ai muốn leo thang chiến tranh. Họ đều muốn hòa bình. Nhưng câu
hỏi là, “Trong những điều kiện nào bạn có thể làm điều đó?”.
Theo ông, thất bại của Hoa Kỳ ở Việt Nam là do chính
người Mỹ tự gây ra, và trước hết là đã đánh giá thấp sự kiên trì
của giới lãnh đạo Bắc Việt!
KHÓ
GỠ THÌ TÌM CÁCH ĐẠP XUỐNG
Khi vẽ lại chiến tranh Việt Nam để biến đen thành trắng và trắng
thành đen, điều mà Mỹ gặp khó khăn nhất là việc lật đổ và giết Tổng Thống Ngô
Đình Diệm. Trong cuốn hồi ký mang tên “The
memoirs of Richard Nixon”, Tổng Tống Nixon có kể
lại rằng khi đến Pakistan, ông đã gặp lại người bạn cũ là Tổng Tống Ayub Khan.
Tổng Thống Khan đã nói một cách đau buồn về việc hạ sát Tổng Tống Ngô Đình Diệm
như sau:
“Tôi
không thể nói – lẽ ra các ông đừng bao giờ ủng hộ ông Diệm ngay từ đầu. Nhưng
các ông đã ủng hộ ông ta trong một thời gian dài và mọi người ở Á Châu đều biết
điều đó. Dù
họ có tán thành hay không tán thành điều đó, họ biết điều đó. Rồi đột nhiên các
ông ngừng ủng hộ ông ta – và ông Diệm đã bị giết.”
Ông ta lắc đầu và kết luận: “Việc
hạ sát ông Diệm có ba ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo Á Châu: làm
một người bạn với Hoa Kỳ là nguy hiểm; trung lập phải trả cái giá của nó; và
đôi khi làm kẻ thù (của Hoa Kỳ) lại tốt hơn!
Lòng tin cậy như một sợi chỉ mong manh và một khi nó đã đứt, rất khó mà nối lại.”
Đó là một thực tế không thể phủ nhận được. Để làm giảm nhẹ bớt ảnh
hưởng của biến cố tai hại này. khi vẽ lại lịch sử, Mỹ gần như không muốn nói về
những gì đã xảy ra dưới thời Đệ I VNCH, chỉ đưa ra vài lời “chúc dữ” ông Diệm
với ẩn ý giải thích tại sao Mỹ phải lật đổ và giết ông ta. Trong bộ phim “Vietnam:
A Television History”, Mỹ đặt tên tập 3 là “America's
Mandarin (1954–1963)" (Vị Quan lại của Hoa
Kỳ) trong đó mô tả ông Diệm đã áp dụng chế độ gia đình trị, nên Việt Cộng nổi
lên chống Diệm và trở thành một sự đe dọa nghiêm trọng khiến Mỹ phải đưa quân
vào để cứu Miền Nam. Trong bộ “The Vietnam War”
Mỹ lại cho rằng ông Diệm "kiêu căng" và "ngạo mạn" một
"đấng cứu thế không có thông điệp"…
Tuy nhiên, mặc dầu đã lấp liếm và đạp Đệ I VNCH xuống như vậy,
hiện nay không một nước nào ở Đông Nam Á chịu đi theo
Mỹ như VNCH trước đây, một số đứng hẳn về phía Trung Quốc và một số
bắt cá hai tay. Để ngăn chận Việt Nam đứng hẵn về phía Trung Quốc, Mỹ phải ký
tuyên bố “đối tác toàn diện”
với Việt Nam và đang vẽ lại lịch sử chiến tranh Việt Nam để tiến tới “hòa
giả hòa hợp”
Để làm sáng tỏ lịch sử trong giai đoạn này, trong phạm vi bài này
chúng tôi sẽ căn cứ vào sử liệu do Mỹ công bố, trình bày khái lược những thủ
đoạn Mỹ đã xử dụng khi xây dựng rồi phá sập chế dộ Đệ I VNCH để tạo lý do đổ
quân vào Việt Nam, thực hiện cuộc chiến mà Mỹ muốn.
CHUYỆN
‘KHI ĐỒNG MINH NHẢY VÀO”
Cầm cuốn “Khi Đồng Minh nhảy vào”
của Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng, tôi mở ra và tìm ngay có Nghị quyết số NSC 5429/2
ngày 20.8.1954 của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Hoa Kỳ hay không.
Ông Diệm mới chấp chánh ngày 7.7.1954 thì ngày 20.8.1954, tức chỉ
43 ngày sau, HĐANQGHK đã họp và ban hành nghị quyết nói về chính sách của Hoa
Kỳ sau Hiệp định Genève (US policies toward post-Geneva Vietnam), đồng thời
phái Trung Tá Lansdale thuộc cơ quan OSS (tiền thân của CIA) đến hướng dẫn ông Diệm
làm. Ông Diệm và ông Nhu không hay biết gì cả. Nghị quyết này được in trong bộ
Foreign Relations of the United States (FRUS), 1952–1954, East Asia and the
Pacific, Vol. XII, Part 1. p. 769 – 976.
Đại
tá Lansdale được phái đển giúp ông Diệm
Tôi rất mừng khi thấy sách Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng có nghị quyết
đó đăng ở trang 198 – 200. Nhưng tôi thất vọng khi thấy Tiến Sĩ Hưng chỉ
tóm lược phần phân tích và nhận định của nghị quyết mà thôi, còn phần
các kế hoạch hành động cụ thể không được nói đến.
Có lẽ Tiến Sĩ Hưng chưa đọc hết các tài liệu liên quan, nên không biết kế hoạch
đó nằm trong phần Phụ đính, không in trong bộ FRUS 1952 – 1954, mà in trong The
Pentagon Papers!
Về phương diện chính trị, kế hoạch này đã ấn định như sau:
“Chính
trị: Pháp phải trao trả độc lập hoàn toàn (gồm cả
quyền rút lui khỏi Liên Hiệp Pháp) cho Nam Việt Nam và và yểm trợ một chính phủ
bản xứ mạnh (a strong indigenous government). Diệm
phải mở rộng căn bản chính phủ, bầu cử quốc hội, soạn thảo hiến pháp và truất
phế Bảo Đại một cách hợp pháp (legally dethrone Bao
Dai). Sự
hợp tác và hỗ trợ của Pháp cho những chính sách này là cần thiết; duy trì FEC
(French Expeditionary Corps - Quân Đội Viễn Chính Pháp), là
chủ yếu đối với an ninh Nam Việt Nam.”
(Gravel Edition, The Pentagon Papers, Volume I, Beacon Press,
Boston, 1971, p. 204)
Chỉ với những câu viết vắn gọn như vậy, khi được triển khai, nó
trở thành những biến cố lớn. Đọc các sử liệu tiếp theo, chúng ta sẽ hiểu tại
sao ông Diệm phải truất phế Bảo Đại đến hai lần, việc dẹp tan các giáo phái,
thống nhất quân đội và hình
thành một chính phủ bản xứ mạnh (a strong indigenous
government) bằng cách tiến tới một chế độ độc đảng gióng Trung Hoa Quốc Dân
Đảng của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan.
Tướng Lansdale đã tranh luận rất gay gắt với ông Frederick
Reinhardt, Đại Sứ Hoa Kỳ tại VNCH (1955 – 1957) lúc đó về
việc thành lập Đảng Cần Lao. Nhưng Đại sứ Reinhardt
bảo: “Vì
ông Diệm nay là Tổng Thống được bầu, ông ấy cần có một đảng riêng của ông”.
Tướng Lansdale cho biết thêm: “Ông
Reinhardt nói với tôi một cách cương quyết rằng quyết định về chính sách của
Hoa Kỳ đã được ấn định và tôi phải hướng các hành động của tôi theo nó.”
Trong bản phúc trình 17.1.1961 Tướng Lansdale nói rõ: “Đảng
Cần Lao không phải là ý kiến của nhà Ngô, “trước tiên nó được đề xướng bởi Bộ
Ngoại Giao Hoa Kỳ” để loại bỏ cộng sản ra khỏi đất nước
(the CLP was not their idea; it "was originally promoted by the U.S. State
Department" to rid the country of communists).
Tuy nhiên, khi Mỹ muốn đem quân vào Việt Nam để thực hiện mục tiêu
mà Mỹ muốn, ông Diệm không đồng ý, Mỹ liền đảo ngược kế hoach lại.
KHI
MỸ QUYẾT PHÁ SẬP ĐỆ I VNCH
Ngày 14.3.1957, ông Elbridge Durbrow được bổ nhiệm làm Đại sứ Mỹ
tại VNCH thay thế Đại sứ G. Frederick Reinhardt. Kế hoạch phá sập chế độ Ngô
Đình Diệm bắt đầu.
Đại
sứ Durbrow được phái đến để phá sập Đệ I VNCH
Nếu khởi đầu Mỹ muốn ông Diệm hình thành tại miền Nam một chế độ
gióng các chế độ chuyên chế của Tưởng Giới Thạch ở Đài Loan, của Park Chung Hee
ở Nam Hàn, của Sukarno và Suharto ở Nam Đương hay của Lý Quang Diệu ở
Singapore... để loại bỏ cộng sản khỏi đất nước (to rid the country of
communists), thì nay Đại sứ Durbrow yêu cầu ông Diệm “thực
hiện dân chủ để được lòng dân và thắng cộng sản”.
Tướng Lansdale đã phản đối vì cho ràng việc thay đổi nhanh như thế sẽ làm Miền
Nam trở thành bất ổn.
Năm 1960 Đại Sứ Durbrow đã yểm trợ thành lập Khối
Tự Do Tiến Bộ, thường được gọi là nhóm
Caravelle, do ông Phan Khắc Sửu làm Trưởng Khối, để vận
động thay thế ông Diệm. Tướng Lansdale đã viết giác thư đề ngày 20.9.1960 phân
tích những sai lầm của Đại Sứ Durbrow. Nhưng Washington im lặng.
Một cuộc đảo chánh đã xảy ra ngày 11.11.1960, có nhiều thành phần
của nhóm Caravelle tham dự. Cuộc đảo chánh thất bại. Hôm 4.12.1960 Đại
Sứ Durbrow đã phải cho Luật sư Hoàng Cơ Thụy ngồi co gối trong thùng ngoại giao
(valise diplomatique) để đưa ra khỏi Việt Nam.
Vì Đại Sứ Durbrow có nhiều bất đồng với chính phủ Ngô Đình Diệm và
tai tiếng trong vụ đảo chánh ngày 11.11.1960, ngày 15.3.1961 Tổng Thống Kennedy
đã quyết định cử ông Federick E. Nolting làm Đại Sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn thay thế
Durbrow. Nhưng ngày 17.8.1963 Bộ Ngoại Giao đã cử ông Henry Cabot Lodge đến làm
đại sứ tại Sài Gòn để tổ chức lật đổ và giết Tổng Thống Diệm.
MỞ
ĐƯỜNG CHO BẮC VIỆT XÂM NHẬP VÀO MIỀN NAM
Từ ngày 12 đến 22.1.1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng CSVN đã
họp Hội nghị lần thứ 15 tại Hà Nội dưa ra nghị quyết “giải
phóng miền Nam”. Tháng 5 năm 1959, Hà Nội quyết định mở con
đường Tây Trường Sơn trên đất Lào để xâm nhập vào Miền Nam, lấy tên là Đường
559, thường được gọi là đường Hồ Chí Minh.
Muốn đi vào Nam, bộ đội Bắc Việt phải từ Quảng Bình theo quốc lộ
12 đi qua Lào bằng đèo Mụ Giạ rồi tiến vào Nam. Cái trở ngại lớn mà Cộng
quân gặp phải là con đường số 9 nối liền Đồng Hà với tỉnh Savannakhet, nơi có
quân đội VNCH tuần phòng thường xuyên. Cộng quân phải lập mật khu 601 gần
Tchépone, nằm cách biên giới Việt – Lào khoảng 40 cây số để làm nơi trú quân.
Từ đó Cộng quân vượt qua đường số 9 rồi đi lên cao nguyên Boloven để xuống ngã
ba Tam Biên.
Chính phủ Ngô Đình Diệm đã ký hiệp ước với Lào cho Quân Lực VNCH
đóng chốt ở Tchépone và Mường Phín, đồng thời giao cho Thiếu Tá Trần Khắc Kính,
Phó Giám Đốc Sở Liên Lạc, mở các cuộc hành quân trên đất Lào để ngăn chận Cộng
quân xâm nhập vào miền Nam. Số quân VNCH đóng chốt và hành quân ở Lào có lúc
lên đến khoảng 170.000 người. Cộng quân khó xâm nhập được.
Đùng một cái, ngày 25.1.1963, Tổng Thống Kennedy tuyên bố ông muốn
biến Lào thành “một
nước độc lập, hòa bình và không liên kết”.
Averell Harriman, Thứ Tưởng Ngoại Giao về Vấn Đề Chính Trị, được coi là người
có quyền hành nhất lúc đó tại Tòa Bạch Ốc, cho rằng phải
trung lập hóa Lào để ngăn chận Cộng quân dùng đất Lào xâm nhập vào Miền Nam.
Ngày 16.5.1961, một Hội Nghị Quốc Tế Giải Quyết Vấn Đề Lào được triệu tập tại
Genève. Chính phủ Ngô Đình Diệm phản đối rất mạnh, nhưng Harriman cứ tiến tới.
Ngày 23.7.1962, Hiệp Ước Hòa Bình tại Lào đã được ký kết, 666 cố vấn Mỹ và toàn
bộ quân đội của VNCH phải rút khỏi Lào. Bắc Việt cũng cam kết như thế. Nhưng
thực tế không như Harriman tuyên bố. Theo báo cáo của CIA, sau khi Lào tuyên bố
trung lập, khoảng 7000 bộ đội Bắc Việt chẳng những không chịu rút khỏi Lào mà
còn bành trướng thêm.
Henry
Cabot Lodge, kẻ thi hành lệnh đảo chánh, giết ông Diệm và ông Nhu
Nhiều người tin rằng Harriman đã mở đường cho Bắc Việt tràn vào
Miền Nam rồi viện vào lý do đó tuyên bố phải đổ quân vào để “cứu Miền Nam”!
LỊCH
SỬ VẪN LÀ LỊCH SỬ…
Trên đây là những nét đại cương về tình hình Miền Nam dưới thời Đệ
I VNCH được tìm thấy trong sử liệu của Mỹ, nhưng khi vẽ lại lịch sử chiến tranh
Việt Nam để phục vụ mục tiêu mới, Mỹ đã tìm cách bôi bác để che dấu sự thật.
Robert F. Turner, Giáo sư Luật tại Đại học Virginia và cũng là một
học giả nổi tiếng về chủ nghĩa cộng sản Việt Nam, đã từng nhận định rằng đa
số những gì về chiến tranh Việt Nam đang được giảng dạy tại các trường trung
học và đại học ở Mỹ lại gần với thần thoại hơn là lịch sử.
Nhưng Đức Dalai Latma đã nói: “History
is history. And my statement will not change past history”.
Lịch sử là lịch sử. Và lời tuyên bố của tôi không thay đổi được lịch sử đã qua.
Ngày 12.10.2017
Lữ
Giang
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment