From: D N Krall <yungkra> wrote
Sent: Monday, August 28, 2017 7:17 PM
Subject: Fwd: NGƯỜI LÍNH GIÀ OREGON : MÀN KỊCH ĐÃ HẠ
Sent: Monday, August 28, 2017 7:17 PM
Subject: Fwd: NGƯỜI LÍNH GIÀ OREGON : MÀN KỊCH ĐÃ HẠ
Tôi chắc mọi người biết hắn là ai.
🇱🇷 WE DO NOT LIVE IN VIỆT
NAM, VIỆT NAM LIVES IN US.
Moi doc de rong duong du luan
Bài
nên đọc cho biết. Tuy tác giả không nêu tên nhân vật nhưng có lẽ đa số đều biết ai đó qua email từ trước hay qua nick name "không tên" mà tác giả tạm đặt cho.
Minh
MÀN
KỊCH ĐÃ HẠ
người
lính già oregon
Trong vở hài kịch nổi tiếng của Molière, Tartuffe
ou l’hypocrite (1664), nhân vật chính, Tartuffe, là một gã vô lại, cơ hội
chủ nghĩa, được Orgon, thuộc giới trung lưu (bourgeois), rước về nhà với sự
chấp thuận của bà mẹ mộ đạo cuồng tín, Mme Pernelle, và hai mẹ con xem gã
như một thánh sống. Trong khi, ngược lại, cả gia đình, từ Elmire, vợ kế của
ông, đến Damis, con trai, đến Mariane, con gái, đến người anh vợ, đến cô người
làm trực tính, trực ngôn, đều khinh ghét gã. Orgon, mỗi lần đi đâu về, đều ân
cần vấn an Tartuffe trước tiên. Và dự tính gả Mariane cho gã, mặc dù cô đã có
người yêu, là Valère. Trước mọi người, Tartuffe có thái độ khiêm cung, nói năng
nhỏ nhẹ, dáng vẻ nghiêm trang, miệng lúc nào cũng kêu tên Chúa. Một hôm, có dịp
gặp riêng Elmire, gã thả lời ong bướm. Từ phòng bên, Damis nghe được, liền báo
cho bố biết, nhưng Tartuffe chối bay chối biến và tố ngược Damis vu khống,
khiến Orgon, vì quá mê gã, bèn từ con, đuổi đi, và viết giấy tặng hết nhà cửa,
tài sản cho gã. Còn Elmire giả vờ nói với gã, sẽ không tiết lộ việc này nếu gã
chịu từ bỏ Mariane để cho cô lấy Valère. Rồi bày mưu, hẹn gặp Tartuffe tại
phòng, làm như muốn đáp lại tình yêu của gã, nhưng trước đó, đã sắp xếp cho
Orgon núp dưới bàn, nghe hết. Orgon bèn nổi giận lôi đình, đuổi gã ra khỏi nhà,
trong khi Mme Pernelle vẫn không tin. Nhưng Tartuffe lại đuổi ngược gia chủ,
sau khi trưng ra đầy đủ giấy tờ. Vua biết được câu chuyện, ra lệnh bắt gã. Vở
kịch kết thúc có hậu cho gia đình Orgon với tin loan báo đám cưới của Mariane
với Valère.
I.
Tartuffe trong bối cảnh Portland, Oregon:
Tôi kể sơ về nội dung vở hài kịch Pháp, thế kỷ XVII, của Molière, để nhắc đến
một vở hài kịch tương tự, đương thời, mà nhân vật là người thế kỷ XXI, đang
sống giữa Cộng đồng của chúng tôi, tức Portland, Oregon. Anh là một nhạc sĩ nổi
tiếng, đối với người Việt tỵ nạn trên thế giới, mặc nhiên trở thành người của
quần chúng (public figure), nhưng tôi tạm gọi “không tên”, cho có vẻ lập dị như
những bài hát của anh. Từ lúc chưa thành phó tế, anh nhạc sĩ không tên này luôn
cư xử với mọi người còn hơn một nhà tu hành thứ thiệt: lễ độ, tươi cười, nhã
nhặn, dáng vẻ e ấp như cô dâu mới về nhà chồng, và nhũn như con chi chi. Một
lần, trong bữa ăn tại nhà một người bạn tôi, vốn mê những bài không tên, anh
nhạc sĩ tuyên bố rằng anh đã có lời hứa với Chúa là sẽ không bao giờ hát và làm
nhạc đời nữa. Liền sau đó, anh cầm đàn, hát một bài sặc mùi đạo, mà anh nói mới
sáng tác. Tôi quên tựa đề, nhưng nhớ mang máng nội dung, đầy tính tượng trưng:
một người leo lên dốc đá cheo leo, trượt chân ngã xuống mấy bận, cuối cùng cũng
thành công, nhờ Chúa giơ tay dắt lên. Và kết thúc là một coda
cao vút, ngân vang như tiếng kinh cầu, ai nghe cũng cảm động.
Nhiều lần, trước đây, bạn bè, người quen, và đồng hương Portland, Công giáo hay
không, vốn dị ứng với anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này, cho anh là một tên đạo đức
giả thật. Biết tôi là con chiên trong giáo xứ Mỹ mà anh đang phục vụ, họ đã mớm
ý cho, và thúc giục, tôi viết một bài tố anh ta về ba tội: làm
ăng-ten trong trại tù cải tạo, làm thầy sáu mà không thuộc giáo lý, lợi dụng
tiền bá tánh để làm giàu cá nhân… Tôi từ chối, bác bỏ
những lời buộc tội mà tôi cho hoặc quá cũ, hoặc thiếu bằng chứng cụ thể, hoặc
không đủ thuyết phục. Và qua đó, vô tình đóng vai luật sư bào chữa cho anh ta
–điều mà anh chưa hề biết. Như sau:
A.
Làm
ăng ten trong tù?
Tôi nói với họ rằng tôi cũng đã ở tù tám năm ngoài Bắc, nhưng
không chung trại, chung đội với anh ta, nên không chứng kiến tận mắt, và
bởi vậy, không dám lên tiếng bàn bạc về điều gì mình không rõ, không thấy, mặc
dù đã đọc nhức mắt nhiều bài viết ký tên tác giả đường hoàng, và nghe rát tai
những tin đồn nặc danh, nửa thực nửa hư, thuộc loại tabloids,
rất tiêu cực về anh. Tuy nhiên, tôi thắc mắc, về từ ngữ, khi các tác giả, độc
giả, và tù nhân cải tạo gọi anh là ăng-ten, không biết có đúng (lắm) không Bởi
một lý do đơn giản: hệ thống ăng-ten trong tù được bố trí ngầm –không, hoặc
khó, có ai phát giác được, và làm sao?– và đôi khi ăng-ten chính là thằng bạn
tù tử tế, hiền như ma sơ, nằm cạnh bên. Thông thường, bọn ăng-ten được giao phó
nhiệm vụ theo dõi và báo cáo, một cách bí mật, cho cán bộ trại về những hành
động, và tư tưởng, của đồng đội, đặc biệt âm mưu trốn trại –là điều mà bọn cai
tù lo sợ nhất. Nhưng để lập công, chúng báo cáo, hoặc bịa ra, đủ thứ chuyện,
thượng vàng hạ cám, kể cả thở dài trong đêm, ngủ gật trong giờ “học tập”, hay
lén hôn vợ trong nhà thăm nuôi v.v...
Riêng anh nhạc sĩ, qua lời của nhiều nhân chứng, có thời gian được cử làm thi
đua, và đội trưởng một đội, với nhiệm vụ báo cáo một cách công khai, hợp pháp,
về người và việc trong trại, trong đội, và mặc tình hành hạ đồng tù. Tôi nghĩ,
đã là công khai thì không còn bị gọi ăng-ten nữa. Phải chăng vì hành động hắc
ám, muốn lấy điểm với cai tù, mà anh đã bị những nạn nhân và nhân chứng quen
miệng gán cho cái nickname
ăng-ten, là danh xưng nặng nề và bỉ ổi nhất, mặc dù về hậu quả, tội làm ăng-ten
hay làm đội trưởng, mà ác ôn, cũng ngang nhau, bên tám lạng bên nửa cân? Hoặc
giả, có thể ở trại này, anh ta làm ăng-ten, ở trại nọ, làm đội trưởng ác ôn?
Hoặc có thể ở cùng một trại, có lúc anh làm đội trưởng ác ôn, có lúc làm
ăng-ten, cho nên lẫn lộn về chữ dùng chăng?
B.
Làm
thầy sáu dỏm?
1)
Năm 1992, tôi đang nghỉ hè ở San José. Anh nhạc sĩ không tên, lúc ấy mới qua
Mỹ, dự định tổ chức buổi tái ngộ với những fans
của mình trong một hội trường gần đó và anh ta bị một số cựu quân nhân cảnh
cáo, tẩy chay, và dọa hành hung, và cửa hội trường bị họ chận, cấm không cho ai
vào dự, bởi bất mãn với thành tích “ăng-ten” của anh. Cho nên, tôi biết rất rõ.
Anh bèn chạy lên Portland, để tỵ nạn. Tại đây, theo tin đồn miệng, hay phổ biến
trên Mạng, nhưng không ai dám xác nhận: đầu tiên, anh ta vô chùa xin quy y. Bị
chùa từ chối, anh bèn nhảy sang nhà thờ Tin Lành. Bị từ chối nữa, anh chưa biết
đi đâu, thì bất ngờ được tiến cử lên LM chánh xứ La Vang bởi những người thân
cận của ông. Biết anh là nhạc sĩ nổi tiếng, LM chánh xứ nhận ngay, cho vào ca
đoàn và sau giữ chức “sứ
vụ tông đồ mục vụ” (?), nhưng anh rất mù mờ về giáo lý, khiến giáo
dân bàn tán, khó chịu. Về sau, không biết bằng cách nào, anh thuyết phục được
ông LM chấp thuận cho học làm thầy sáu, mà không qua thủ tục bắt buộc cho tất
cả ứng viên phó tế khác: phải đi học lấy bằng MA về Thần học (theology) tại
University of Portland. Vì kém Anh văn, lại không có BA ở Mỹ, anh
được Tòa Tổng Giám Mục Portland –thời đó, còn quá dễ dãi– châm chước cho
tham dự các lớp Kinh Thánh căn bản do giáo phận tổ chức và học thần học “hàm
thụ” tại chỗ với một LM trẻ, đệ tử của LM chánh xứ, và với sự giúp đỡ làm homework
của một giáo viên dạy giáo lý tại La Vang. Năm 2001, anh được phong chức
phó tế. Theo thiển ý, anh làm thầy sáu ngang, tức là tắt, cũng như làm quan
tắt, chứ không phải làm thầy sáu chui hay dỏm, như dư luận dị nghị. Lúc ấy, LM
chánh xứ đã đổi đi và một LM khác lên thay, và với ý kiến của giáo dân, ông cha
xứ mới này từ chối, không nhận anh về giáo xứ La Vang, mặc dù đang rất cần một
phó tế người Việt.
2)
Rồi
thầy sáu Việt Nam này được Tòa Tổng Giám Mục Portland bổ nhiệm về phục vụ một
giáo xứ Mỹ, từ 2001 cho đến hôm nay.
a.
Trong
buổi lễ chiều Chúa Nhật, có tôi, anh được cha xứ Mỹ mời đứng lên tự giới thiệu,
trước giáo dân Mỹ và thiểu số, gồm khá đông người Mễ, Phi, Nga… và lèo tèo vài
bổn đạo Việt Nam. Vì thế, anh tha hồ bốc phét, khiếp quá, tuy không ác liệt như
kho đạn Long Bình, hoặc văng miểng tới mây xanh như vài vị thuộc hàng cự phách
trong Làng Nổ Oregon, về thân thế và lý lịch. Anh ta nói, và tôi còn nhớ rõ,
tuy là
một Trung úy Phật tử, nhưng anh đã có ơn gọi đi tu theo Công giáo, từ lúc còn ở
Việt Nam trước 1975, sau khi một cô bạn gái dạy anh học kinh Kính Mừng, và đi
đánh trận [hồi nào?], nhờ đọc kinh Kính Mừng, anh đã nhiều lần thoát chết, và
sau 1975, trong tù VC, cũng nhờ đọc kinh ấy, anh đã khỏi bệnh mất ngủ [sic].
Nào là qua Mỹ, bị bệnh gần chết, anh đã nhờ Chúa và Đức Mẹ Maria cứu khỏi. Nào
là anh có bằng Cử Nhân Luật ở VN, đặt nhạc trữ tình, nhưng, anh thêm, với thiên
chức thầy sáu, từ nay anh sẽ quên đi “quá khứ sai lầm” đó. Nào là, động trời
hơn, chức vụ cuối cùng của anh, trước ngày Sài Gòn sụp đổ, là chỉ huy Bộ Thông Tin của chính phủ Miền Nam và dùng
chữ minister
–bởi, tôi tự hỏi, anh cố tình nổ sảng hay không hiểu chữ đó có nghĩa “bộ
trưởng”? Nào là anh bị giam nhiều năm tại những trại tù khắc nghiệt của VC, và
ở đó được bạn bè rửa tội cho… Giáo dân Mỹ tò mò lắng
nghe, không phản ứng, một phần vì lịch sự, một phần vì không ở trong chăn nên
anh nói hươu nói vượn gì cũng tin tuốt luốt, một phần vì chỉ hiểu lõm bõm, cũng
như tôi, tiếng Anh đầy accent
An Nam Mít của anh.
b.
Trung
bình mỗi tháng, anh đến nhà thờ một lần để phụ giúp cha xứ làm lễ, và mỗi lần,
trước và sau lễ, thấy tôi, anh ta gật đầu chào, và ngược lại, nhưng không bắt
tay nhau, bởi mặc cảm từ cả hai phía. Tiếp xúc với anh, tôi cảm thấy khó thoải
mái, nếu không muốn nói khó chịu, vì cử chỉ và lời ăn tiếng nói, khiêm nhường,
hay nhún nhường quá đáng, của anh, có cái vẻ gì đó không thật, nếu không muốn
nói giả tạo, làm tôi nghĩ đến vở kịch và nhân vật của Molière. Càng khó chịu
hơn khi, sau này, nghe tin về một phép lạ, được ai đó đồn ầm trên báo và Mạng Việt
Nam, đã xảy ra cho cặp kính mát của
anh, nghĩa là giơ nó lên ánh mặt trời người ta thấy có hình Đức Mẹ hiện ra rõ ràng. Phép lạ nhảm nhí, lố
bịch đó, ít lâu sau, không còn được ai nhắc nữa, nhưng nhiều người vẫn nhớ, để
kể lại với ít nhiều châm biếm, mỉa mai.
C.
Làm
giàu từ những hoạt động từ thiện?
Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha chánh xứ cho anh thời gian rộng rãi để lo cho
Hội Từ Thiện, mà anh sáng lập năm 2005, và quảng cáo rầm rộ trong một flyer
(đính kèm).
Phải công nhận anh điều hành Hội một cách khoa học và qui mô, gồm cả việc bán
điện thoại V247 và dược thảo chữa bách bệnh (trong đó có thuốc “tăng cường hạnh
phúc gia đình”) và đã kiếm được tiền một cách hợp pháp, ít ra theo giấy tờ và
báo cáo. Được tờ The
Sentinel của Giáo phận và cha xứ nhiệt liệt ca ngợi, và anh mặc nhiên trở
thành thầy sáu cưng của Tòa Giám Mục Portland. Thậm chí, cũng năm ngoái, 2016,
cha xứ đã đi Manila, Philippines làm từ thiện, cùng với anh ta.
Có một điều làm đồng hương chê bai: thành công như thế, nhưng anh không
bao giờ tham gia sinh hoạt Cộng Đồng, không đóng góp tài năng hay tài chánh cho
Cộng Đồng khi cần. Nhưng sau hai mươi năm, vẫn né, vẫn núp dưới
chiếc veste
đen và cổ cồn trắng, và những ngày Chúa Nhật, dưới lễ phục –được sử dụng như
một áo giáp vững chắc. Và rất tự tin, tưởng rằng người ta đã quên.
Nhưng
người ta vẫn nhớ. Tôi thành thật nói với những kẻ còn căm ghét anh rằng, dù có
tội gì chăng nữa, anh đã cải tà qui chánh và chọn con đường tu rồi thì hãy cho
anh ta một cơ hội làm lại cuộc đời. Bằng
cách để yên cho anh tu hành, leave
him alone, như người Mỹ thường nói. Và tôi im lặng. Kiên nhẫn chờ đợi, và
cầu mong, một ngày anh sớm thành “chánh quả”.
II. Áo gấm về làng:
Đùng
một cái, có tin anh nhạc sĩ kiêm thầy tu này trở về Việt Nam làm một tua ra mắt
và bán sách (Chuyện
tình không tên) viết kể lại chuyện tình “hàm thụ” ngày xưa một cách vô
duyên, lẩm cẩm, vớ vẩn (đối với một người trên bảy bó, quá tuổi hồi xuân, nếu
không vớ vẩn, lẩm cẩm, vô duyên thì còn là cái gì?), đồng thời tổ chức hát
những bài không tên cũ rích, cùng với những ca sĩ hải ngoại cóc nhái, vô liêm
sỉ, mùa chay nào cũng có nước mắt, cộng với vài ca sĩ lô-can quốc nội, suốt
tháng 8 này, tại Hà Nội, Đà Nẵng, Qui Nhơn, Quảng Ngãi, và Sài Gòn. Tin được
tung ra, chuyền đi nhanh như tên bắn, làm mọi người sửng sốt, thất vọng, nhưng
không ngạc nhiên, vì bản chất là bản chất, ở đây, giả dối, và, như VC nói,
không bao giờ thay đổi. Đối với anh ta, vấn đề chỉ là thời gian cho vở kịch bịp
bợm, có lớp lang, dài đến hai mươi năm, hạ màn, trót lọt.
Hôm nay, tôi không còn chọn lựa, vì anh nhạc sĩ kiêm phó tế này đã vượt qua lằn
ranh đỏ (red line). Nhìn những bức ảnh của anh chụp ngày 28/7 tại phi trường
Nội Bài, và phổ biến tràn ngập trên Mạng, mày
râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao, hớn hở, khác xa hồi mới đến Portland, vào
đầu thập niên 90, còn lẻ loi, lêu bêu, bèo nhèo, và cười nói tươi rói với các
ca sĩ địa phương, bạn bè và thân nhân ra đón, tặng hoa, níu lấy tay, khiến
những người tỵ nạn chống VC và các cựu tù binh cải tạo hiện ở hải ngoại không
khỏi thấy ngứa mắt và ứa gan.
Mặt nạ rơi xuống, anh ta hiện nguyên hình một Tartuffe bằng xương bằng thịt đã
đóng vai trò của mình quá xuất sắc, và bây giờ, cụ thể hơn, đã trở thành một công cụ ngu ngốc, nhưng hãnh diện,
của VC, trong việc thực thi Nghị quyết 36, cũng như hơn bốn mươi
năm trước, tại các trại tù, trong việc đối xử ác độc với các sĩ quan VNCH đồng
đội của anh. Vì sao?
1)
Thời điểm trở về (tự nguyện, hay được VC mời dụ?) của anh
rất phù hợp với “ý đồ” và kế hoạch thâm độc của VC và tình thế hiện tại trong
nước. Xin nhắc, tháng 8 là tháng VC kỷ niệm Hà Nội khởi nghĩa (19/8/1945),
còn gọi là “Cánh mạng tháng 8”. Không phải bởi trùng hợp, ngẫu nhiên, hay tự phát, mà có
đến hơn hai trăm người dân (ở không, rảnh quá sao?), được gọi là fans,
đội mưa hàng giờ để đón nhạc sĩ thần tượng, tại phi trường, theo tin báo chí
quốc nội – một vinh dự hãn hữu mà từ trước đến nay, không có Việt Kiều nào được nhận lãnh…
VC là một lũ lưu manh, xảo quyệt, biết tận dụng mọi thủ đoạn. Khi cần đàn áp
biểu tình, hay đập phá nhà thờ, tu viện, chúng điều động hàng trăm côn đồ, thay
vì công an, và tuyên bố đó là “hành động tự phát” của nhân dân. Làm sao có một
“hành động tự phát” nào dưới chế độ độc tài, đảng trị hiện nay, mà không được
bọn lãnh đạo cho phép, sắp xếp, cổ võ, hoặc ngược lại, mà không bị ngăn chận,
trừng phạt, đàn áp dã man?
Vai trò của anh này rất cần thiết cho VC trong giai đoạn và bối cảnh hiện tại
bởi anh ta là một phó tế Công giáo và một nhạc sĩ nổi danh. Nhất cử lưỡng tiện.
Như sau:
a.
Về mặt nổi, anh ta trở về trong tư cách nghệ sĩ trình diễn, được nhiều người
hâm mộ tiếp đón –theo dàn dựng của VC, là chuyện thường tình đối với công luận.
Ngoài ra, VC ngu gì mà không
biết anh là cựu sĩ quan bị tù cải tạo nổi tiếng, nhưng vẫn cho phép về trình
diễn, mà không qua thủ tục kiểm duyệt khắt khe, cấm cản gì ráo, không bắt “cởi
quần áo khám nghiệm” như những ca sĩ, nhạc sĩ hải ngoại khác (nghĩa bóng) về
nước trình diễn, hay những cô gái quê (nghĩa đen) muốn lấy chồng Đại Hàn, Đài
Loan, kể cả những thằng ngưòi nửa điên nửa khùng, đui què sứt mẻ. Qua việc dành
mọi ưu đãi cho anh nhạc sĩ này, phải chăng chúng muốn tuyên truyền, một lần
nữa, chính sách “hòa hợp hòa giải”, “xóa bỏ hận thù” bịp bợm, mà chúng đã khổ
công khua chiêng gõ mõ ầm ỉ, nhưng vẫn thất bại, suốt bao năm qua?
b.
Về mặt chìm, là phó tế, anh bị dùng như một đối trọng (contrepoids) với những vị
linh mục và giáo dân dũng cảm trong nước, từ mấy tháng nay, đã và đang ngày đêm
xuống đường biểu tình chống tập đoàn Formosa và bọn lãnh đạo tham nhũng bán
nước cầu vinh, cũng như, ở hải ngoại, chúng đang sử dụng những linh mục trẻ,
quốc doanh, bố lếu bố láo, hay giả mạo, tại Texas, Florida hay Connecticut –đã
lợi dụng bục giảng để công khai tuyên bố những lời mất dạy về VNCH và Ngày Quốc
Hận 30/4. Cho phép một nhà tu hành Công giáo, dù chỉ là phó tế, chức
nhỏ nhất trong hàng giáo phẩm, về nước ca hát, VC muốn chứng tỏ cho cả thế giới
thấy rằng chúng không kỳ thị tôn giáo, và qua đó, và cùng với sự im lặng của
Hội đồng Giám mục Việt Nam, chúng có thêm đồng minh và phương tiện để tiêu diệt
một cách tinh vi và mạnh mẽ hơn những linh mục và giáo dân đang biểu tình phản
kháng chúng. Đã không ủng hộ họ thì chớ, mà vô tình (hay nhận lệnh) anh thầy tu
tắt này cũng không nhiều thì ít đã đồng lõa, tiếp tay triệt tiêu sự chiến đấu
đầy chính nghĩa của họ, trước công luận?
2)
Ngoài
ra, khi về VN trình diễn nhạc đời, mà là nhạc tình sa đọa, đương nhiên anh ta
đã tự lột bỏ chức thánh cao quý và chiếc áo tu hành mà anh, một Xuân Tóc Đỏ
mới, đã may mắn vớ được –đã tạm thời che chở anh trước cơn thịnh nộ của những
đồng hương tỵ nạn và các sĩ quan tù nhân cải tạo, một thời là nạn nhân trực
tiếp, hay gián tiếp, của anh.
Thêm nữa, phải chăng vì chóa mắt trước danh và lợi, và lòng trần chưa dứt bỏ
được tham sân si, anh
ta đã vi phạm trầm trọng lời thề hứa, với Chúa, mà trong vai trò Tartuffe, anh
thường lớn tiếng rêu rao, khi có dịp, là từ bỏ những bài trữ tình, dù có tên hay không tên,
của anh?
Nhân tiện, NLGO tôi, trong tư cách một khách thưởng ngoạn, xin có lời bàn nhỏ
về những bài không tên: nhạc thì ủy mị, rên siết, sướt mướt, nghĩa là tầm
thường, và nội dung bài nào, nhất là bài không tên cuối cùng, cũng xúi giục
người đàn bà có chồng ngoại tình, trong tư tưởng, với thằng bồ cũ rất bựa, rất
nham nhở, rất cà chớn và rất độc ác đã công khai khoe khoang thành tích chơi
gái, không biết giữ gìn thanh danh, bảo vệ hạnh phúc gia đình cho người đã (lỡ
dại) trao thân cho nó. Tôi thực tình không hiểu nổi, về mặt nghệ thuật, và nhất
là đạo đức, não trạng nào đã khiến người ta, ở hải ngoại hay trong nước, có thể
mê mẩn những bài hát có nội dung vô luân đến thế, đến nỗi phải tiến cử anh ta
học làm thầy sáu, hoặc phải đứng hàng giờ dưới mưa, chờ đón anh ta trở về nước,
hoặc phải tranh nhau để được hát chung trong cuộc lưu diễn này. Trước 1975,
chẳng hạn, một con bé hàng xóm của tôi, mới mười tuổi, thường nghêu ngao hát
những câu, “mưa
bên chồng có làm em khóc… có làm em nhớ những khi mình mặn nồng…”.
Đúng là bệnh hoạn!
Tôi nghĩ rằng Tòa Tổng Giám Mục Portland và cha xứ họ đạo Mỹ chưa biết mục đích
thật sự về VN lần này của anh. Nhưng tôi tin rồi họ cũng sẽ biết, kể cả việc
làm “ăng-ten”, bức hại đồng đội trong tù, và việc rửa tội chui, còn là một nghi
vấn đối với nhiều người. Vì tôi tin vào công lý tuyệt đối của Thiên Chúa, hay
luật nhân quả (karma) trong đời thường. Còn anh dại gì mà khai thật. Họ cứ
tưởng anh về VN lần này, cũng như mọi lần trước (và chắc chắn đã được nêu lên
trong đơn xin phép của anh), là để làm từ thiện.
III.
Thay cho lời kết:
Có lẽ sau bài viết này, tôi sẽ phải đi lễ tại một nhà thờ khác trong khu vực.
Lý do duy nhất là để tránh nhìn thấy bộ mặt tởm lợm của một kẻ mà từ nay sẽ
tiếp tục là chỗ trú ẩn an toàn cho sự lừa bịp và gian dối hóa thân. Một
Tartuffe thời đại, mà những hành vi vừa qua tại Việt Nam có hậu quả rất khốc
hại và lâu dài trên cả nước –còn tồi tệ hơn chính nhân vật đạo đức giả trong vở
kịch của Molière.
Portland,
24/8/2017
NLGO
No comments:
Post a Comment