Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản
Stephen Kotkin
Một trăm năm kể từ cuộc đảo chính của Lenin ở Nga, cái ý thức hệ
dấn thân cho sự nghiệp xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã để lại một chặng đường
dài hủy diệt và chết chóc.
Tầm tuần này một thế kỷ trước, chủ nghĩa cộng sản chiếm được đế
quốc Nga, đất nước lớn nhất thế giới tại thời điểm đó. Các phong trào thiên tả
đủ loại đã lan tràn trong chính trị châu Âu trước khi diễn ra cuộc cách mạng
ngày 25 tháng Mười năm 1917 (trùng vào ngày 7 tháng Mười Một theo lịch cải cách
của Nga), nhưng Vladimir Lenin và những người bolsheviks của ông thì khác hẳn.
Họ không chỉ mang một niềm tin hoang tưởng mà còn linh hoạt trong chiến thuật
và may mắn hơn các đối thủ.
Chủ nghĩa cộng sản đi vào lịch sử như là sự kết tội chủ nghĩa tư
bản, kịch liệt nhưng đầy chất lý tưởng, và hứa hẹn một thế giới tốt đẹp hơn.
Những người ủng hộ chủ nghĩa cộng sản, cũng như những người cánh tả khác, đều
đổ lỗi cho chủ nghĩa tư bản đã gây ra tình trạng bi thảm của nông dân và công
nhân cũng như sự lan tràn của lao động nhập cư và lao động trẻ em. Những người
cộng sản nhìn thấy cuộc tàn sát trong Chiến tranh Thế giới lần thứ Nhất như là
hậu quả trực tiếp của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các cường quốc để giành giật
thị trường nước ngoài.
Nhưng một thế kỷ cầm quyền của chủ nghĩa cộng sản – mà ngày nay
vẫn còn đứng vững ở Cuba, Bắc Hàn và Trung Quốc – đã làm rõ cái giá phải trả về
nhân mạng của một chương trình chính trị quyết tâm lật đổ chủ nghĩa tư bản. Hết
lần này đến lượt khác, nỗ lực xóa bỏ thị trường và quyền tư hữu đã gây ra cái
chết của một số lượng người đáng kinh ngạc. Từ năm 1917 – ở Liên Xô, Trung Quốc, Mông Cổ, Đông Âu, Đông Dương,
Phi châu, Afghanistan và nhiều nước châu Mỹ Latin – chủ nghĩa cộng sản đã làm
thiệt mạng ít nhất 65 triệu người, theo nghiên cứu cẩn thận của các nhà dân số
học.
Những công cụ hủy diệt của chủ nghĩa cộng sản bao gồm việc trục xuất hàng loạt, các trại cưỡng bức lao
động và sự khủng bố của nhà nước cảnh sát – một mô hình được lập ra bởi Lenin và đặc biệt là người kế tục
ông là Joseph Stalin. Mô hình này được nhân rộng nhiều nơi. Dù chủ nghĩa cộng
sản đã cố ý giết chết một lượng lớn người dân nhưng thậm chí còn nhiều nạn nhân
hơn đã chết vì nạn đói – hậu quả của những dự án tàn bạo về cải tạo xã hội.
Với những tội ác mang “tầm sử thi” này, Lenin và Stalin phải chịu
trách nhiệm cá nhân, cũng như Mao Trạch Đông ở Trung Quốc, Pol Pot ở Cambodia,
gia tộc họ Kim ở Bắc Hàn và các nhà độc tài cộng sản khác ít tàn bạo hơn. Nhưng
chúng ta đừng bỏ qua các ý tưởng đã thôi thúc những kẻ độc ác này tàn sát con
người trên quy mô lớn như vậy, cũng đừng quên cái bối cảnh dân tộc thôi thúc họ
đi theo các ý tưởng này. Sự nghiệp chống chủ nghĩa tư bản hấp dẫn họ do tính
đúng đắn của chính nó và trong tâm trí họ, đó cũng là công cụ để các quốc gia
chậm tiến nhảy vọt lên, đứng vào hàng ngũ các cường quốc.
Giờ đây, cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa đã lụi tàn, nhưng một
trăm năm của nó, xét như một sự nghiệp vĩ đại chống chủ nghĩa tư bản, vẫn đòi
hỏi một sự phân xử thích hợp.
Vào tháng Hai năm 2017, Nga hoàng Nicholas đệ Nhị thoái vị dưới áp
lực của các tướng lĩnh, những người lo ngại rằng các cuộc biểu tình và tuần
hành đòi cơm áo ở thủ đô St. Petersburg đang xói mòn nỗ lực chiến tranh chống
Đức và các nước đồng minh của nó. Cuộc Cách mạng tháng Hai, như tên gọi biến cố
ấy, lập ra một chính phủ lâm thời không do người dân bầu lên; chính phủ này cầm
quyền mà không có một nghị viện dân cử. Nông dân bắt đầu giành lấy ruộng đất và
các xô-viết (tức là các ủy ban chính trị) bắt đầu được thành lập trong binh
lính ở chiến trường, cũng giống như các xô-viết đã được lập ra trước đó trong
các nhóm chính trị ở đô thị.
Mùa thu năm ấy, khi chiến tranh diễn ra ngày càng dữ dội, những
người bolshevik của Lenin đã tiến hành
một cuộc khởi nghĩa vũ trang, huy động được có lẽ không quá 10.000 người. Cuộc
đảo chính của họ không nhắm lật đổ chính phủ lâm thời từ lâu đã trở nên dở sống
dở chết; thay vì vậy họ chống lại các xô-viết chính ở thủ đô do những người xã
hội chủ nghĩa ôn hòa hơn thống trị. Cuộc Cách mạng tháng Mười bắt đầu là một
cuộc lật đổ chớp nhoáng mà những người cánh tả cấp tiến thực hiện để chống lại
phần còn lại của cánh tả, thành phần tố cáo những người bolshevik vi phạm quy tắc và sau
đó đã bỏ ra khỏi các xô-viết.
Những người bolshevik,
cũng như nhiều đối thủ của họ – là môn đệ trung thành của Karl Marx, nhà tư
tưởng cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực vĩ đại của lịch sử. Cái mà ông
gọi là chế độ phong kiến sẽ phải nhường chỗ cho chủ nghĩa tư bản, rồi đến lượt
mình, chủ nghĩa tư bản sẽ bị thay thế bằng chủ nghĩa cộng sản và cuối cùng là một
thế giới đại đồng không tưởng xa xăm! Marx hình dung ra một kỷ nguyên mới của
tự do và sung túc, và điều kiện tiên quyết của nó là sự phá hủy “chế độ nô lệ
tiền lương” và sự bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Như ông và người cộng sự
Friedrich Engels từng tuyên bố trong Tuyên ngôn Cộng sản năm 1848, học thuyết
của họ “có thể được tóm gọn trong một câu đơn nhất: bãi bỏ quyền tư hữu”.
Một khi đã giành được quyền lực vào đầu năm 1918, những người bolshevik tự đổi tên thành Đảng
Cộng sản và họ tìm cách buộc nước Nga phải cấp tốc đi lên chủ nghĩa xã hội, đi
tới giai đoạn cuối cùng của lịch sử. Hàng triệu người bắt đầu tập sống theo
những phương cách mới. Tuy nhiên không ai biết chính xác xã hội mới sẽ ra làm
sao. “Chúng tôi không thể mô tả đặc điểm của chủ nghĩa xã hội. Chúng tôi không
biết, chúng tôi không thể nói chủ nghĩa xã hội sẽ như thế nào khi nó đạt đến
hình thức hoàn hảo của nó”, Lenin kết luận như vậy vào tháng Ba năm 1918.
Nhưng với họ có một điều rõ ràng: chủ nghĩa xã hội không giống chủ
nghĩa tư bản. Chế độ xã hội chủ nghĩa thay thế quyền tư hữu bằng sở hữu tập
thể, thị trường thay bằng kế hoạch hóa và các nghị viện “tư sản” thay bằng
“quyền lực nhân dân”. Tuy vậy vào thời điểm đó ngay cả một số người cộng sản đã
rút ra kết luận là trong thực tế không thể nào thực hiện được kế hoạch hóa khoa
học. Còn công cuộc tập thể hóa quyền tư hữu đã đem lại quyền lực không phải cho
nhân dân mà cho nhà nước.
Quá trình do người cộng sản phát động đã kéo theo sự bành trướng
rộng rãi một guồng máy công an mật vụ để xử lý các vụ bắt bớ, lưu đày trong
nước và hành quyết những “kẻ thù giai cấp”. Sự truất hữu các nhà tư bản cũng
làm giàu cho một giai cấp mới các cán bộ nhà nước, những người nắm quyền kiểm
soát tài sản quốc gia. Tất cả các đảng phái và quan điểm nằm bên ngoài học
thuyết chính thống đều bị đàn áp, chính trị như là một cơ chế để điều chỉnh bị
xóa bỏ
Những mục tiêu được tuyên bố của cuộc cách mạng năm 1917 là sự
sung túc và công bằng xã hội, nhưng sự tiêu diệt chủ nghĩa tư bản đã sinh ra
những cơ cấu làm cho các mục tiêu đó không bao giờ đạt được.
Ở khu vực đô thị, chế độ xô-viết có khả năng dựa vào lực lượng
công nhân nhà máy có vũ trang, những người mới kết nạp đảng đầy nhiệt huyết và
công an chìm, dựa vào những người trẻ nôn nóng xây dựng thế giới mới. Nhưng ở
nông thôn, người nông dân – có khoảng 120 triệu người như vậy – đã thực hiện
cuộc cách mạng của riêng họ, lật đổ giới quý tộc và thiết lập trong thực tế
quyền sở hữu ruộng đất của nông dân.
Với một đất nước bị tàn phá đang đi tới bờ vực của nạn đói, Lenin
bắt buộc các cán bộ đảng còn miễn cưỡng phải chấp nhận cuộc cách mạng riêng rẽ
của nông dân trong thời điểm đó. Ở nông thôn một nền kinh tế gần giống kinh tế
thị trường vẫn được cho phép vận hành, bất chấp sự phản đối của các đảng viên
cộng sản thuần túy.
Khi Lenin qua đời vào năm 1924, sự nhân nhượng với nông dân đã trở
thành vấn đề của Stalin. Cho đến năm 1928, có chưa tới 1% diện tích đất canh
tác đã được hợp tác hóa một cách tự nguyện. Vào thời điểm ấy, phần lớn các nhà
máy chủ yếu đều đã do nhà nước làm chủ và chính quyền đã cam kết một kế hoạch 5
năm công nghiệp hóa. Các nhà cách mạng bực tức khi thấy giờ đây Liên Xô có hai
hệ thống không tương thích với nhau – chủ nghĩa xã hội ở thành phố và chủ nghĩa
tư bản ở làng quê.
Stalin đã không trì hoãn. Ông áp đặt công cuộc tập thể hóa cưỡng
bức trên toàn quốc, từ ven biển Baltic tới ven bờ Thái Bình Dương, bất chấp
những cuộc nổi loạn của quần chúng nông dân. Ông đe dọa các cán bộ đảng, bảo họ
rằng nếu như họ không nghiêm túc trong việc xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, họ hãy
chuẩn bị sẵn sàng để giao quyền lực cho những nhà tư sản đang nổi lên ở nông
thôn. Ông kích hoạt cuộc chiến tranh giai cấp chống lại “kulak” (trung nông và điền chủ),
và bất cứ ai bảo vệ họ, áp đặt hạn ngạch (quota) cho việc bắt bớ tràn lan
và lưu đày nội địa.
Stalin nói rõ nguyên lý cơ bản về ý thức hệ của ông: “Chúng ta có
thể phát triển nông nghiệp theo kiểu kulak, kiểu nông trại cá nhân,
bên cạnh trang trại quy mô lớn” giống như ở “Mỹ và các nước khác” hay không?
Ông hỏi. “Không, chúng ta không thể. Chúng ta là đất nước Xô-viết. Chúng ta
muốn xây dựng một nền kinh tế tập thể, không chỉ trong công nghiệp mà cả trong
nông nghiệp”.
Và ông đã không bao giờ thoái lui, ngay cả khi, do hậu quả các
chính sách của ông mà đất nước Nga rơi vào một nạn đói nữa vào các năm
1931-1933. Tập thể hóa cưỡng bức trong mấy năm ngắn ngủi đó đã cướp đi sinh
mạng của khoảng từ 5 đến 7 triệu người.
Tiền lệ khủng khiếp của Liên Xô đã không ngăn cản được các nhà
cách mạng cộng sản khác. Mao Trạch Đông, một người cứng rắn như Stalin, đã vươn
lên vị trí cao nhất của phong trào cộng sản Trung Hoa và vào năm 1949, ông và
các đồng chí của ông trở thành người chiến thắng trong cuộc nội chiến ở Trung
Quốc. Mao đã thấy cái giá nhân mạng khổng lồ trong cuộc thử nghiệm của Liên Xô
như là yếu tố nội tại của thành công!
Chính sách Đại Nhảy Vọt của Mao, một chiến dịch bạo lực diễn ra từ
1958 tới 1962, là nỗ lực tập thể hóa khoảng 700 triệu nông dân Trung Quốc và mở
rộng công nghiệp về nông thôn. “Ba năm lao động cần cù và chịu đựng [để có]
ngàn năm thịnh vượng”, là một trong những câu khẩu hiệu nổi bật thời đó.
Các báo cáo sai lệch về những vụ thu hoạch thắng lợi và nông dân
sung sướng vui vẻ tràn ngập các khu nhà ở được cung cấp đầy đủ của giới tinh
hoa cộng sản cầm quyền ở Bắc Kinh. Nhưng trong thực tế, chương trình của Mao đã
dẫn tới một trong những nạn đói khủng khiếp nhất trong lịch sử, làm chết đói
khoảng từ 16 đến 32 triệu người. Sau thảm họa, mà những người sống sót nói tới
như là “làn gió cộng sản”, Mao dập tắt hết những lời kêu gọi ngừng tập thể hóa
nông nghiệp. Như ông từng tuyên bố: “nông dân muốn tự do nhưng chúng ta muốn
chủ nghĩa xã hội”.
Những mất mát khủng khiếp này vẫn không ngăn chặn được sự lặp lại
tính tàn bạo cộng sản nhân danh xóa bỏ chủ nghĩa tư bản. Sau khi chinh phục
được Cambodia vào năm 1975, Pol Pot và phe Khmer Đỏ của ông ta đã đuổi hàng
triệu người ra khỏi các thành phố, đẩy họ về nông thôn làm việc trong các công
xã và các dự án cưỡng bức lao động. Họ tìm cách biến Cambodia thành một xã hội
thuần nông không có giai cấp.
Khmer Đỏ bãi bỏ đồng tiền, cấm đánh bắt cá để kinh doanh, hành
quyết các tu sĩ Phật giáo, Hồi giáo; các cộng đồng thiểu số gốc Việt và gốc Hoa
của đất nước bị coi là “kẻ xâm nhập”. Chế độ của Pol Pot cũng tập trung trẻ em
để ngăn ngừa việc chúng bị lây nhiễm ý thức hệ từ cha mẹ “tư bản” của chúng.
Được biết đã có khoảng 2 triệu người Cambodia, tương đương một
phần tư dân số vào thời ấy, đã chết vì đói rét, bệnh tật, bị hành quyết hàng
loạt trong bốn năm ác mộng dưới ách cai trị của Pol Pot. Ở một số khu vực, ao
chuôm nào đào lên cũng thấy sọ người
Phân tích về giai cấp của Marx bác bỏ tính chính danh của mọi
phong trào chính trị đối lập, không chỉ từ các phần tử “tư sản” mà từ ngay bên
trong các phong trào cộng sản – bởi vì những người đối lập phục vụ “một cách
khách quan” cho lợi ích của trật tự tư bản quốc tế. Cái lô-gic về cách mạng
không ngừng nghỉ chống chủ nghĩa tư bản sẽ chỉ tới một lãnh tụ duy nhất trên
đỉnh một hệ thống độc đảng.
Từ Nga tới Trung Quốc, từ Bắc Hàn tới Cuba, các nhà độc tài cộng
sản đều chia sẻ những đặc điểm chung chủ yếu. Tất cả đều ít nhiều tuân theo
khuôn mẫu của Lenin: một sự pha trộn hệ tư tưởng đấu tranh với những thủ đoạn
vô nguyên tắc. Và tất cả đều có sức mạnh ý chí tuyệt vời – điều kiện tiên quyết
để thủ đắc những gì chỉ có sự đổ máu không tính nổi mới có thể mang lại.
Tuy nhiên, trong thế kỷ vừa qua chủ nghĩa cộng sản không phải là
tác nhân duy nhất thực hiện các vụ tàn sát. Sự đàn áp của chủ nghĩa quốc xã (Nazi), những cuộc chiến tranh
thanh lọc sắc tộc cũng đã giết hại khoảng 40 triệu người. Và trong thời Chiến
tranh Lạnh, phong trào chống cộng sản đã kích hoạt những cơn bùng phát bạo động
bất ngờ và dữ dội ở Indonesia, châu Mỹ Latin và nhiều nơi khác.
Nhưng bằng chứng về nỗi kinh hoàng cộng sản nổi lên liên tục trong
nhiều thập niên đã gây sốc nặng cho những người cánh tả và theo tư tưởng tự do
ở phương Tây, những người cùng chia sẻ nhiều mục tiêu công bằng xã hội của các
nhà cách mạng. Nhiều người phản đối Liên Xô đã làm méo mó chủ nghĩa xã hội, và
quy những tội ác của chế độ Xô-viết cho tình trạng lạc hậu của nước Nga, cho
tính khí của Lenin và Stalin. Dù sao, Marx không bao giờ ủng hộ việc tàn sát
hàng loạt hoặc các trại lao động kiểu Gulag. Không tìm đâu thấy ông
biện luận rằng công an chìm, trục xuất người trên xe chở súc vật và chết đói
hàng loạt là những biện pháp nên dùng để thiết lập các trang trại tập thể.
Nhưng nếu chúng ta phải học có một bài học từ một thế kỷ cộng sản
thì đó chính là: để thực thi các lý
tưởng của Marx thì cần phải phản bội chúng. Đòi hỏi của Marx “bãi bỏ quyền tư
hữu” là tiếng kèn xung trận kêu gọi hành động – nhưng cũng là con đường kiên
định dẫn tới sự hình thành nhà nước đàn áp, không bị kiểm soát.
Một số nhà xã hội chủ nghĩa bắt đầu nhận ra rằng, không thể có tự
do nếu không có thị trường và sở hữu tư nhân. Khi họ bắt đầu giải hòa với sự
tồn tại của chủ nghĩa tư bản, hy vọng sẽ điều tiết thay vì xóa bỏ nó, họ bị cáo
buộc là những kẻ phản bội. Theo thời gian, ngày càng có nhiều nhà xã hội chủ
nghĩa chấp nhận kiểu nhà nước phúc lợi, hoặc kinh tế thị trường có sự phân
phối. Nhưng tiếng còi kêu gọi vượt qua chủ nghĩa tư bản vẫn còn vang vọng trong
một số người cánh tả.
Những thành trì cố thủ quan trọng của thế kỷ cộng sản vẫn còn tồn
tại, dù không theo kiểu Marxist chính thống, ở Nga và Trung Quốc. Cả hai quốc
gia này vẫn tiếp tục hoài nghi những gì có lẽ là quan trọng nhất của thị trường
tự do và sở hữu tư nhân: khả năng đem lại cho người dân thường sự độc lập trong
suy nghĩ và hành động, cho họ quyền theo đuổi những lợi ích của chính họ mà họ
thấy phù hợp, trong đời sống riêng tư, xã hội dân sự và không gian chính trị.
Nhưng chống chủ nghĩa tư bản còn được sử dụng như một chương trình
thay thế trật tự thế giới bằng một trật tự mới, trong đó những mục tiêu dân tộc
chủ nghĩa từ lâu bị đè nén sẽ được hiện thực hóa. Đối với Stalin và Mao, người
thừa kế những nền văn minh cổ đầy tự hào, châu Âu và Hoa Kỳ đại diện cho sức
cám dỗ và mối đe dọa của một phương Tây siêu việt. Những người cộng sản tự đặt
ra cho mình nhiệm vụ phải đuổi kịp và vượt qua các đối thủ tư bản chủ nghĩa và
giành cho đất nước mình vị thế trung tâm trên sân khấu quốc tế. Cuộc đấu tranh
cách mạng cho phép nước Nga thỏa mãn cái ý thức kéo dài nhiều thế kỷ về sứ mệnh
đặc biệt của mình trên thế giới, trong khi nó cho Trung Quốc cơ hội để tuyên
xưng một lần nữa là Vương quốc Trung tâm.
Sự chống đối phương Tây của Vladimir Putin, cùng với sự pha trộn
đặc thù của ông trong đó niềm hoài vọng về thời đại Xô-viết hòa với sự phục hồi
Chính thống giáo Nga, được xây dựng trên tiền lệ của Stalin. Về phần mình, tất
nhiên Trung Quốc vẫn là cường quốc cộng sản cuối cùng, ngay cả khi Bắc Kinh
quảng bá và cố gắng kiểm soát một nền kinh tế phần lớn là thị trường. Giờ đây,
dưới quyền ông Tập Cận Bình, đất nước này vừa đi theo hệ tư tưởng cộng sản vừa
khai thác văn hóa truyền thống Trung Hoa trong nỗ lực nâng cao vị thế quốc gia
như là một sự thay thế phương Tây.
Thế kỷ máu của chủ nghĩa cộng sản đã đi tới lúc kết thúc, và
chúng ta có thể bày tỏ niềm vui về sự lụi tàn của nó. Nhưng những khía cạnh
đáng lo ngại trong di sản của nó thì vẫn còn dai dẳng!
S.K.
__________
Stephen Kotkin là giáo sư sử học và quan hệ quốc tế đại học
Princeton và nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Hoover của đại học Stanford. Cuốn
sách mới nhất của ông, “Stalin: Chờ đợi Hitler, 1929-1941” vừa được Penguin
Press xuất bản tháng trước.
Nguồn bản dịch: http://www.viet-studies.net/kinhte/Kotkin_BloodyCentury_WSJ.html
TBT Trọng: 'Cách mạng Tháng 10 mãi ngời sáng'
- 7
tháng 11 2017
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam, Nguyễn Phú Trọng nói về sự
'đau xót' khi Liên Xô sụp đổ nhưng ca ngợi tư tưởng Cách mạng Tháng 10 Nga 'mãi
ngời sáng'.
Trong bài diễn văn được truyền thông Việt Nam đăng tải hôm
05/11/2017 để đánh dấu 100 năm cuộc cách mạng năm 1917 ở Nga, Giáo sư Trọng
nói:
"Tư tưởng vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga về giải phóng
dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người mãi mãi ngời sáng!"
Ông cũng nhắc lại và bày tỏ lòng "nhớ ơn sâu sắc Cách mạng
Tháng Mười, với những cống hiến vô giá của nhân dân Liên Xô đối với nhân
loại".
Ngoài ra, ông nhắc về "mối tình thắm thiết Việt - Xô",
và cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước và nhân dân Việt Nam "đau
xót trước biến cố đầy bi kịch xảy ra ở Liên Xô vào đầu những năm 90 của thế kỷ
trước", sự kiện Liên Xô tan rã.
'Không khỏi bàng hoàng'
Giáo sư Nguyễn Phú Trọng thừa nhận cảm xúc 'bàng hoàng' trước sự
kiện năm 1991.
"Vẫn biết cách mạng là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp,
không phải là con đường bằng phẳng, dễ dàng, có khi nó phải trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, quanh co, khúc khuỷu, thậm chí có lúc tạm thời thất bại, thụt
lùi, nhưng chúng ta vẫn không khỏi bàng hoàng trước biến cố đó."
Tuy nhiên, ông nhận định Đảng Cộng sản Việt Nam cần "tỉnh
táo nhận diện những nguyên nhân chủ quan và khách quan đưa tới sự việc đau buồn
đó".
"Và điều quan trọng hơn là cần rút ra những bài học sâu sắc
để tiếp tục kiên trì và kiên quyết theo đuổi mục tiêu, lý tưởng xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta, tránh rơi vào những sai lầm đã làm Liên Xô đổ vỡ."
TBT Nguyễn Phú Trọng, người từng học tại Liên Xô về chủ nghĩa
Marx-Lenin cho rằng lối thoát chính là nhận diện ra "sai lầm về đường
lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên".
Nay ông thúc dục, "toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát
từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân."
"Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân Quan
liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với
vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng."
Việt Nam là một số quốc gia còn lại trên thế giới tổ chức lễ kỷ
niệm 100 năm cuộc cách mạng của Lenin năm 1917.
Tại Nga ngày nay, chính quyền của Tổng thống Vladimir Putin đề cao
ngày Thống nhất Quốc gia 04/11 thay cho ngày 7/11 là dịp đảng cộng sản tuần hành
kỷ niệm Cách mạng Tháng 10 năm 1917.
__._,_.___
Posted
by: Dien bien hoa binh <
No comments:
Post a Comment