Ý
kiến: 'Cần hòa giải với người chết'
GS Lê
Xuân Khoa Viết từ California,
Hoa K
- Thương Nhớ Ngàn Đời Không Nguôi !!
Ngày Chiến Sĩ Trận Vong
Memorial Day
Chính sách đối xử kỳ thị rõ rệt nhất, trái ngược với hòa giải thật
sự, là trường hợp Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa (NTBH), nơi chôn cất trên
16,000 tử sĩ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã bỏ mình trong cuộc nội chiến vì mâu
thuẫn ý thức hệ.
Ngay sau khi đất
nước thống nhất, nghĩa trang này được Bộ Quốc phòng giao cho Quân khu 7 quản
lý. Bức tượng “Thương Tiếc” cao 5m khắc họa một quân nhân ngồi tưởng niệm tử sĩ
đặt trên bệ ở ngoài cổng nghỉa trang bị hạ xuống và đem đi mất tích. Nghĩa
trang bị thâu hẹp diện tích và rào kín thành cấm địa, dân chúng không được vào
thăm viếng. Một số bia mộ bị quân đội nhân dân dùng làm bia tập bắn. Sau nhiều
năm, hàng ngàn ngôi mộ bị sụp lở, đất đai bỏ hoang cho cây cỏ và dây leo mọc
bừa bãi, cảnh tượng trông rất thê lương.
Năm 2003, nhân
dịp phái đoàn ngoại giao do Thứ trưởng Nguyễn Đình Bin cầm đầu sang Mỹ công
tác, một buổi tiếp xúc giữa phái đoàn với một số trí thức người Mỹ gốc Việt
thuộc cả hai thế hệ đã diễn ra tại trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế thuộc Đại
học Johns Hopkins, Washington DC, để trao đổi về những vấn đề cùng quan tâm.
Buổi họp do khoa
học gia NASA Trương Hồng Sơn làm điều hợp viên. Khi những trở ngại cho vấn đề
hòa giải được đề cập thì Phạm Đức Trung Kiên, một trí thức trẻ khi đó là Giám
đốc Quỹ Giáo dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation) do Quốc Hội Mỹ thành
lập, nêu ý kiến là chuyện hòa giải giữa những người sống vẫn còn quá nhạy cảm,
vậy hãy nên bắt đầu bằng hòa giải với những người đã khuất. Anh Kiên nảy ra ý
kiến này vì chợt nghĩ đến kinh nghiệm bản thân trong chuyến đi Việt Nam công
tác mới về. Anh cùng một người bà con ở Saigon thuê xe đi thăm mộ một người
thân ở Nghĩa trang Biên Hòa.
Tới nơi, thấy
nghĩa trang bị rào kín nhưng có một chỗ hổng đủ rộng cho hai người chui vào.
Trong lúc đang tìm kiếm vị trí ngôi mộ thì bỗng nghe tiếng quát tháo của lính
canh. Hai người hoảng hốt chui ra và lên xe chạy mất. Cuộc thảo luận sau đó dẫn
đến đề nghị cụ thể của đa số là chính phủ đứng ra trùng tu hay cho phép tư nhân
trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa, hay tối thiểu cũng mở Nghĩa trang cho thân nhân
tử sĩ được vào thăm, sửa sang hay xây cất lại mộ phần. Thứ trưởng Nguyễn Đình
Bin cho biết đây là khu quân sự đang được đặt dưới quyền cai quản của Quân khu
7. Ông ghi nhận đề nghị của anh Kiên và hứa sẽ đạo đạt nguyện vọng của hội nghị
tới các cơ quan có thẩm quyền.
Trên đường về
nước sau buổi họp này, ông Nguyễn Đình Bin đã ghé California gặp cựu Phó Tổng
thống VNCH Nguyễn Cao Kỳ, và ông Kỳ cũng nêu lên vấn đề NTBH với ông Bin. Như
đã thấy, thiện chí hòa giải của ông Kỳ qua việc xây cất lại tượng đài và làm lễ
cầu siêu chung cho tử sĩ cả hai bên đã không được chính phủ Việt Nam chấp thuận.
Đề nghị thực tế
và khiêm tốn hơn của nhóm trí thức ở Washington DC cũng phải đợi đến năm 2007,
sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định 1568/QĐ-TTg ngày 27.11.2006
“dân sự hóa” NTBH, mới được chính quyền địa phương giải quyết một cách hạn chế
và tùy tiện. Sau khi Quân khu 7 trao quyền quản lý NTBH cho Ủy ban Nhân dân
tỉnh Bình Dương, nghĩa trang này được đổi tên thành “Nghĩa trang Nhân dân Bình
An”.
Đến đây, cần phải
nhắc đến sự giúp đỡ thầm lặng nhưng rất quan trọng của cố Thủ tướng Võ Văn
Kiệt. Trong dịp găp ông Kiệt lần đầu tiên vào tháng Ba 2007 để thảo luận khả
năng thành lập một “think tank” độc lập ở Việt Nam với sự hợp tác của một số
trí thức ở trong và ngoài nước, tôi đã nhắc đến đề nghị “hòa giải với người
chết” do Phạm Đức Trung Kiên nêu lên với phái đoàn Nguyễn Đình Bin từ gần bốn
năm trước. Tôi nhấn mạnh rằng đề nghị này có được thi hành thì trí thức, chuyên
gia người Việt ở nước ngoài mới sẵn sàng đóng góp tài năng vào các dự án phát
triển đất nước.
Ông Kiệt hoàn
toàn tán thành ý kiến của tôi. Ông cũng cho tôi hay là có một nhóm cựu quân
nhân VNCH vừa tìm đến ông xin giúp họ được phép tìm mộ những tù cải tạo đã chết
trong các trại giam để bốc mộ và trao trả hài cốt cho thân nhân đưa về cải táng
ở quê quán hay đưa vào yên nghỉ trong Nghĩa trang Biên Hòa. Ông đã nhận lời
giới thiệu nhóm này với những địa phương có trại tù cải tạo để có thể thực hiện
công tác thuần túy nhân đạo này.
Về vấn đề trùng
tu Nghĩa trang Biên Hòa, ông Kiệt sẽ quan hệ với chính quyền tỉnh Bình Dương để
lấy them thông tin và tìm cách giải quyết trong tinh thần hòa giải. Khi thấy
tôi lo ngại về mục đích dân sự hóa Nghĩa trang Biên Hòa, theo quyết định của
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là “để phát triển kinh tế, xã hội tỉnh Bình Dương”
thì ông Kiệt quả quyết với tôi là phần đất của nghĩa trang sẽ được giữ nguyên
vẹn. Tuy nhiên, ông đồng ý khi tôi phát biểu là nếu Nghĩa trang Biên Hòa không
được sửa sang và duy trì như một di tích lịch sử ở miền Nam thì dự án “think
tank” khó có thể được trí thức ở nước ngoài tham gia như mong đợi.
Ông sẽ thu xếp
cho tôi đi gặp lãnh đạo tỉnh Bình Dương để có thông tin đầy đủ và xác định
những trở ngại cần phải vượt qua. Với những kết quả đã đạt được khi ông còn
sống, tôi có thể khẳng định rằng nhờ có sự can thiệp âm thầm nhưng mạnh mẽ ban
đầu của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt mà NTBH, ít nhất là diện tích có mộ phần các
tử sĩ, đã không bị sử dụng vào mục đích “phát triển kinh tế, xã hội.” Thật đáng
tiếc là ông đã vĩnh viễn ra đi trước khi hai chương trình tìm mộ tù cải tạo và
trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa đạt được mục tiêu mong muốn.
Tìm mộ tù cải tạo
hay 'Tử sĩ trở về'
Sau cuộc họp tại
Đại học Johns Hopkins năm 2003, Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Đình Bin có thể đã
chuyển đề nghị “hòa giải với người chết” của nhóm trí thức Mỹ gốc Việt đến các
cơ quan có thẩm quyền, nhưng không có kết quả, chắc hẳn đã gặp phải những phản
ứng tiêu cực, nhất là từ hai Bộ Công an và Quốc phòng.
Như vậy, cho đến
khi có sự can thiệp của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt năm 2007, NTBH đã bị bỏ hoang
32 năm cho thiên nhiên tàn phá và đã có những hành động xúc phạm đến người chết
như dùng một số bia mộ làm đích tập bắn, xây cất chuồng bò trong nghĩa trang,
thậm chí có một cầu tiêu đã được xây ngay bên trong Nghĩa Dũng Đài.
Trên đây có nói
đến một nhóm cựu tù cải tạo tìm đến cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt vào đầu năm 2007
xin giúp đỡ cho dự án tìm mộ và cải táng hài cốt những người đã chết trong các
trại cải tạo. Đây là nhóm Tổng Hội H.O. ở Houston, Texas, mà chủ tịch là cựu
Thiếu tá Nguyễn Đạc Thành, cựu tù cải tạo hơn 9 năm trong nhiều trại từ Nam ra
Bắc, được thả năm 1984 và sang Mỹ định cư theo diện H.O. năm 1990. Khi ở trong
tù phải chứng kiến những cái chết đau thương của bạn đồng tù và biết rằng thân
xác của họ bị chôn cất qua loa ở trong rừng, thiếu tá Thành đã có lời nguyện
với linh hồn người quá cố là nếu sống sót đến ngày được thả về, ông sẽ làm mọi
cách tìm mộ và giúp thân nhân bốc mộ đưa hài cốt về cải táng ở nghĩa địa gia
đình hay quân đội.
Phải hơn 20 năm
sau Thiếu tá Thành mới có cơ hội thực hiện lời nguyện này. Qua sự vận động của
Luật sư Robin Mitchell với các cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao Việt Nam, đầu năm
2007 ông Thành và một thành viên ban chấp hành Tổng Hội H.O. đã về nước gặp ông
Trần Quang Hoan, Phó Chủ nhiệm Ủy ban về người Việt Nam ở Nước ngoài, sau đó
đến gặp cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt và được ông Kiệt nhận can thiệp với Bộ Ngoại
giao giúp thực hiện dự án tìm mộ tù cải tạo. Do sự giới thiệu của ông Kiệt, khi
trở về Mỹ, Thiếu tá Thành liên lạc với tôi và mời tôi làm cố vấn cho dự án được
ông đặt tên là “Tử sĩ Trở về” (The Returning Casualty).
Từ đó, tôi có dịp
góp ý với ông Thành về kế hoạch vận động cả trong và ngoài nước, vì ngoài sự
chấp thuận và hợp tác của chính phủ Việt Nam, dự án cũng cần có sự hỗ trợ của
chính phủ Mỹ, quốc hội và cộng đồng người Việt hải ngoại. Vào lúc đó, Tổng Hội
H.O. cũng có thêm sự giúp đỡ của Luật sư Wesley Coddou về các giấy tờ pháp lý
và đối ngoại.
Qua nhiều lần
tiếp xúc với các đại diện Sứ quán và lãnh sự Việt Nam ở Hoa Kỳ để giải đáp các
nghi vấn về hoạt động của Tổng Hội H.O., đầu tháng Mười 2007, ông Nguyễn Đạc
Thành về Việt Nam gặp Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Phú Bình. Sau khi tìm hiểu
thêm, ông Bình cho phép VAF thực hiện chương trình “Tử sĩ Trở về”. Khi ấy tất
cả các trại đều đã đóng cửa vì tù cải tạo đã được thả hết. Những địa điểm đầu
tiên ông Thành đi thăm là Đồi Cây Khế ở Yên Bái, sau đó là Mường Côi, Bản Bò,
Khe Nước và Bản Nà, tất cà đều ở tỉnh Sơn La, tìm được tổng cộng 87 ngôi mộ.
Riêng Đồi Cây Khế đã có 57 mộ.
Những cuộc tìm mộ
sau đó đều tiến hành rất chậm vì có nhiều đia phương không chịu hợp tác dù đã
có lời yêu cầu của Bộ Ngoại Giao hay thư giới thiệu của Đại sứ quán Việt Nam
tại Mỹ. Để tránh sự nhạy cảm của các viên chức chính phủ, Tổng Hội H.O. được
đổi tên là Vietnamese American Foundation (VAF) đăng ký chính thức tại tiểu
bang Texas dưới qui chế của một tổ chức phi chính phủ, phi lợi nhuận, nhưng kết
quả đối xử của Việt Nam vẫn không khá hơn.
Mặc dù VAF được
dân chúng địa phương thông cảm và giúp đỡ, việc tìm kiếm mộ rất khó khăn vì hầu
hết tù cải tạo khi chết đều được chôn ở trong rừng, được các bạn tù đánh dấu
vội vã bằng cách ghi tên người chết trên những mảnh ván hay hòn đá thay cho bia
mộ. Những nấm mồ nông cạn bằng đất nay đã tan vào lòng cây cỏ và những bia mộ
tạm thời cũng không còn nữa. Chỉ khi nào chính quyền địa phương, thực tế là
công an, cung cấp bản đồ chôn cất thì mới biết đích xác vị trí các ngôi mộ. Một
số dân lớn tuổi ở địa phương có thiện chí giúp đỡ VAF nhưng trí nhớ không rõ
rệt, vì thế số ngôi mộ tìm được ở những nơi không được chính quyền chỉ dẫn chắc
chắn còn thiếu sót.
Điển hình nhất là
vụ chính quyền tỉnh Phú Yên, vào tháng 10, 2012 hủy bỏ vào giờ chót quyết định
cho phép VAF bốc mộ tù cải tạo khi phái đoàn VAF đã về tới Saigon với một đoàn
y sĩ tình nguyện để chữa bệnh phát thuốc sức khỏe cho dân nghèo ở Phú Yên, chi
phí rất tốn kém. Sau sự cố này, VAF phải tạm ngưng chương trình “Tử sĩ Trở về”.
Tính đến tháng
10, 2012, đúng 5 năm sau ngày khởi sự tìm mộ ở Yên Bái và Sơn La, VAF đã tìm
được 500 mộ tù cải tạo trong đó có 225 bộ hài cốt được trao cho thân nhân đem
về quê cải táng. Một số hài cốt không có người nhận được gửi ở chùa hay nhà thờ
chờ ngày được phép đưa vào NTBH. Số mộ còn lại chưa tìm được thân nhân, VAF xin
bốc mộ đưa hài cốt vào chôn ở NTBH nhưng chính quyền không chấp thuận.
Con số 500 mộ đã
tìm được chắc chắn là quá ít so với tổng số tù cải tạo bị chết trong các trại.
Chính phủ Việt Nam còn giữ kín các con số liên quan đến các trại tù cải tạo,
nhưng ngày 29 tháng Tư, 2001, báo Orange Countty Register công bố kết quả
nghiên cứu tài liệu về các trại tù cải tạo và phỏng vấn các nhân chứng, cho
thấy có khoảng 1 triệu người bị bắt giam không được xét xử, 165 nghìn người
chết trong thời gian bị giam giữ, và ít nhất có 150 trại tù cải tạo được dựng
lên sau khi Sài gòn thất thủ.
Một sự kiện quan
trọng cần được nhắc đến là VAF, nhờ quan hệ của luật sư Wesley Coddou, đã được
Trung tâm Nhận Dạng, Đại học Bắc Texas (Center for Human Identification,
Department of Forensic and Investigative Genetics, University of North Texas
Health Science Center) nhận thử nghiệm miễn phí DNA từ các mẫu hài cốt tù cải
tạo và thân nhân của họ. Việc thử nghiệm DNA đem lại niềm an ủi vô cùng lớn lao
cho những gia đình tù cải tạo đã chết trong tù mà mộ đã mất bia và không có di
vật gì bên cạnh hài cốt khiến thân nhân có thể xác nhận là của người quá cố.
Chuyên gia khảo
cổ Julie Martin, người tham gia đoàn VAF về Việt Nam lấy mẫu hài cốt tù cải tạo
tại Làng Đá, Yên Bái, tháng Bảy 2010, đã viết bài tường trình về chuyến đi
trong một cuốn sách viết với nhiều tác giả về kinh nghiệm khảo cổ pháp y vừa
được xuất bàn (Forensic Archeology: A Global Experience, John Wiley and Sons,
Ltd., 2015).
Tác giả ghi nhận,
ngoài việc giúp thân nhân nhận được hài cốt người chết do thử nghiệm DNA, VAF
còn có mục đich “đưa hài cốt tù cải tạo không thân nhân hay không thể nhận dạng
vào cải táng trong Nghĩa trang Biên Hòa, và trùng tu nghĩa trang này thành một
nơi tưởng niệm lâu dài dành cho những người đã bỏ mình trong một cuộc chiến
chia rẽ đất nước và dân tộc của họ.” Đặc biệt trong chuyến đi này, đại diện gia
đình tử sĩ đã quay được một cuốn video về cuộc đào mộ lấy hài cốt tù cải tạo
với những hình ảnh rất “sốc” khiến người xem không cầm được xúc động.
Cuốn video này
chắc chắn không làm hài lòng các viên chức chính quyền và có lẽ vì thế mà công
tác bốc mộ của VAF ở đồi Cù Lao, Phú Yên, đã bị ngăn chặn khiến cho VAF phải
tạm ngưng chương trình tìm mộ tù cải tạo từ năm 2012.
Trùng tu Nghĩa
trang Biên Hòa
Chính phủ
CHXHCNVN đã chứng tỏ thiện chí hòa giải với chính phủ và nhân dân Hoa Kỳ trong
chương trình tìm kiếm người Mỹ mất tich (POW/MIA) nhưng lại không muốn hòa giải
với chính đồng bào của mình còn ở lại miền Nam hoặc đã ra đi tị nạn ở nước
ngoài.
Tám năm sau khi
Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ bình thường, đề nghị “hòa giải với người
chết” được trí thức Mỹ gốc Việt nêu lên trong cuộc gặp gỡ phái đoàn Nguyễn Đình
Bin ở Đại học Johns Hopkins năm 2003 vẫn không được chính phủ Việt Nam đáp ứng.
Phải mất thêm bốn năm nữa, nhờ sự giúp đỡ của cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, tổ chức
VAF mới được phép thực hiện chương trình tìm mộ tù cải tạo.
Đáng chú ý nhất
là sau khi ông Thành và LS Coddou lên Washington, DC được thêm sự ủng hộ của
Giám đốc Vụ Châu Á-Thái Bình Dương tại Bộ Ngoại giao Matthew Palmer và Thượng
Nghị sĩ Jim Webb năm 2009 thì VAF thực hiện thành công vụ bốc mộ ở Làng Đá năm
2010 với sự hợp tác của cơ quan thử nghiệm DNA tại Houston. Kết quả thử nghiệm
DNA đã giúp một số gia đình tù cải tạo nhận đúng hài cốt của người thân lấy từ
những ngôi mộ vô danh ở trong rừng.
Nhưng có thể sự tham
gia bất ngờ của chuyên gia DNA và kết quả thử nghiệm đã khiến cho VAF lại gặp
trở ngại trong nỗ lực tìm và bốc mộ tù cải tạo. Như đã thấy trong trường hợp
tỉnh Phú Yên, chính quyền địa phương không cho phép chuyên gia DNA lấy mẫu hài
cốt mà chỉ cho VAF bốc những ngôi mộ còn bia, nhưng ngay cả việc cho phép hạn
chế này cũng bị hủy bỏ vào giờ chót. VAF phải quyết định (tạm) ngưng chương
trình này vì nếu không có thử nghiệm DNA thì những nấm mộ không có bia sẽ vĩnh
viễn bị vô danh, vô thừa nhận.
Tại sao chính
quyền không cho thử nghiệm DNA? Phải chăng vì kết quả thử nghiệm khoa học này
không chỉ giúp nhận dạng người chết mà còn có thể biết được nguyên nhân của cái
chết?
Cũng như đối với
chương trình tìm và bốc mộ tù cải tạo, chính phủ Việt Nam chưa khi nào chính
thức cho phép VAF trùng tu NTBH. Mọi công tác bốc mộ hay xây mộ chỉ được chấp
thuận bằng miệng, trừ một lần VAF nhận được văn thư địa phương cho phép nhưng
lại thu hồi ngay. Đó là trường hợp ngôi mộ tập thể gồm hơn 200 thi hài binh sĩ
VNCH còn để trong nhà quàn của nghĩa trang ngày 30.4.1975 nhưng bị quân đội
nhân dân đào hố chôn chung ở ngoài vòng nghĩa trang.
Tháng Ba năm
2011, VAF xin bốc ngôi mộ tập thể này để đưa hài cốt vào bên trong nghĩa trang.
Một tháng sau, nhờ sự can thiệp của Bộ Ngoại giao ở Hà Nội, Sở Ngoại vụ tỉnh
Bình Dương mời ông Nguyễn Đạc Thành về nhận văn thư chấp thuận và thảo luận chi
tiết chương trình tổ chức bốc mộ của VAF. Ông Thành được Sở Ngoại vụ trao tận
tay văn thư này, nhưng khi về đến Mỹ thì ông nhận được quyết định thu hồi giấy
phép.
Những quyết định
bất nhất trên đây cho thấy thế lực địa phương còn mạnh và ý định thật sự của họ
chỉ có thể được hiểu là họ muốn giải tỏa NTBH, vừa xóa sạch di tích của VNCH,
vừa trở nên giàu có hơn vì có thêm đất cho ngoại quốc đầu tư (chủ yếu là Trung
Quốc). Thâm ý đó được thấy rõ trong việc đổi tên Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa
thành Nghĩa trang Nhân dân Bình An.
Thâm ý đó cũng
được thấy trong việc chính quyền thúc giục thân nhân tử sĩ đưa hài cốt trong
NTBH về cải táng ở quê nhà; như vậy nghĩa trang quân đội miền Nam sẽ biến thành
một nghĩa trang thuần túy dân sự để có thể giải tỏa dễ dàng. Vì VAF được sự ủng
hộ của ông Võ Văn Kiệt và Đại sứ quán Mỹ ở Hà Nội, chính quyền phải trì hoãn kế
hoạch giải tỏa NTBH. Sau cái chết của ông Kiệt năm 2008, chương trình trùng tu
NTBH của VAF bị ngưng trệ cho tới năm 2012 mới được khởi động lại.
Trong chính quyền
có một xu hướng cởi mở theo chủ trương hòa giải của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt,
phần lớn từ Bộ Ngoại giao, nhưng họ còn phải dè dặt không chỉ vì sự chống đối
của phe bảo thủ mà còn vì một số vấn đề chưa được giải quyết, chẳng hạn miền
Bắc và Mặt trận Giải phóng Miền Nam còn có khoảng 300,000 binh sĩ và cán bộ đã
bỏ mình trong cuộc chiến chưa tìm được xác.
Giả thử sau khi
thống nhất, “bên thắng cuộc” (mượn từ của Huy Đức) thực hiện hòa giài hòa hợp
dân tộc, không đầy đọa trên dưới một triệu người miền Nam trong các trại tù khổ
sai được gọi là “cải tạo” thì đôi bên thắng và thua đã có thể ngồi lại với nhau
cùng giải quyết những vấn đề quá khứ của mỗi bên.
Cộng đồng người
Việt ở nước ngoài có khả năng đóng góp tài chính và kỹ thuật, đồng thời có lợi
thế vận động các chính phủ và tổ chức tư nhân quốc tế hỗ trợ cho chương trình
MIA của Việt Nam bên cạnh những chương trình phát triển kinh tế xã hội...
Các lãnh đạo Đảng
và Nhà nước đã không ngớt kêu gọi hòa giải hòa hợp dân tộc (về sau chỉ nói đến
“hòa hợp”) và dành nhiều sự dễ dãi cho người Việt hải ngoại trở về thăm quê
hương, làm việc từ thiện, nghiên cứu, giảng dạy, hay đầu tư, kinh doanh.
Tuy nhiên, những
biện pháp này chỉ thể hiện chính sách hòa giải một chiều có lợi ích cho chế độ,
không phải là hòa giải hai chiều dẫn đến đối xử bình đẳng và hợp tác có lợi ích
cho đất nước.
Trong chuyến thăm
Hoa Kỳ vừa qua, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Đảng và Chính phủ Việt
Nam nói lên những lời chính đáng trước chính phủ và nhân dân hai nước.
Chính phủ Hoa Kỳ
và mọi người Việt Nam, trong và ngoài nước, đều trông đợi những hành động cụ
thể của chính phủ Việt Nam, tốt nhất là bắt đầu bằng sự chấp thuận dứt khoát và
toàn bộ chương trình “hòa giải với người chết” như đề nghị của VAF.
Tôi tin rằng lần
này các chính quyền địa phương, đặc biệt là tỉnh Bình Dương, sẽ tuân theo chỉ
thị của trung ương để hợp tác và giúp đỡ VAF hoàn tất chương trình tìm mộ tù
cải tạo và trùng tu Nghĩa trang Biên Hòa.
BBC sẽ tiếp tục đăng phần hai ý kiến của Giáo sư Lê Xuân Khoa,
nguyên Chủ tịch Trung tâm Tác vụ Đông Nam Á (Southeast Asia Resource Action
Center, SEARAC), nguyên Giáo sư Thỉnh giảng trường Cao học Nghiên cứu Quốc tế,
Đại học Johns Hopkins, Washington, D.C., hiện cư ngụ tại Irvine, Nam
California.
__._,_.___
Posted
by: <vneagle_1
No comments:
Post a Comment