Sau khi lên ngôi GH 1978 . Tháng 2 , 1979 GH John Paul về nước để ủng hộ dân chúng nổi dậy chống CS Liên Sô dưới sự lãnh đạo của Lech Walesa . Nga đưa gần một trăm xe tăng tiến sát biên giới Ba Lan .
Lập tức GH JP tuyên bố :
" Nếu Nga đưa xe tăng tràn qua lãnh thổ Ba Lan , thì tôi sẽ từ chức Giáo hoàng để về đứng bên cạnh đồng bào tôi "
Ronald Reagan chịu JP quá . Ông cho lập ngay một Catholic Alliance - Liên minh CG - gồm toàn người CG như John Allen , James Poindexter ..v..v.., chống lại Liên Sô .
Ngày 01 tháng 12 , 1989 , TT Nga Gorbachov dẫn một phái đoàn qua Vatican gặp GH JP .
Từ do CS Liên Sô và
CS Đông Âu sụp đổ .
----- Forwarded Message -----
From: "Quocviet V
Sent: Thursday, October 13, 2016 10:39 PM
Subject: [BTGVQHVN-2] Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và sự sụp đổ của chế độ cộng sản
Đức cố Giáo Hoàng Gioan Phaolo II và sự sụp đổ của chế
độ cộng sản
Posted in Linh Mục Chân Tín
Về cuộc sụp đổ đế quốc cộng sản, Đức Giáo Hoàng nói: “Có
thể là đơn giản khi nói rằng Đấng Tối Cao đã gây ra sự sụp đổ của chủ nghĩa
cộng sản. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ, vì hậu quả của những lỗi lầm và sự
đối xử tồi tệ của riêng nó. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ vì sự yếu kém cố hữu
của nó.”
Ngày 1-5-2011, Đức đương kim Giáo Hoàng Bênêđictô XVI sẽ cử hành lễ tuyên phong chân phước Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II tại Đền thờ Thánh Phêrô, Vatican, Roma.
Nhân dịp này, tôi có ý cùng toàn
thể Giáo Hội ca tụng công đức của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thêm vào đó, tôi
còn có một vài lý do riêng. Ngài với tôi cùng một
tuổi. Ngài sinh ngày 18-5-1920, lấy tên là Karol Jozef Wojtyla, tại Balan. Còn
tôi, sinh ngày 15-11-1920, tại Việt Nam. Sau khi làm linh mục, ngài với tôi cùng
học một trường đại học ở Roma. Đàng khác, ngài và tôi có cùng một tinh thần
chống chủ nghĩa cộng sản.
Với tuổi già và sự hiểu biết lịch
sử có hạn, tôi vẫn muốn góp nhặt một vài biến cố về Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II trong sự sụp đổ của đế chế cộng sản. Đặc biệt những biến cố đó đã được ghi
lại trong cuốn sách “His
Holiness John Paul II and
the Hidden History of Our Time” của hai
nhà báo Carl Bernstein
và Marco Polili. Cuốn sách này đã được Nguyễn Bá Long và Trần Quy Thắng dịch,
Nhà xuất bản Công An Nhân Dân in tại Hà Nội, 1997, 911 trang.
Cuộc hành trình đầu tiên của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô
II với tư cách giáo hoàng đến Balan
Ngày 2-6-1979 chiếc máy bay của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã hạ cánh xuống thủ đô Balan. Vào lúc đó, những tiếng
chuông từ tất cả các nhà thờ ở Balan đều gióng lên. Giáo sư Henryk Jablonsky
Chủ tịch Hội đồng Nhà Nước Balan sốt ruột nhìn, khi chiếc máy bay phản lực
trắng toát của hãng hàng không Alitalia bắt đầu hạ cánh xuống sân bay Vacxava.
Giờ đây, chiếc máy bay đang hạ cánh xuống Vacxava giống như một thiên thạch và
không một ai biết tác động của nó sẽ như thế nào.
Người lái chiếc máy bay của
ngài, sau khi vào không phận Balan, đã lượn một vòng cho chiếc máy bay bay qua
thành phố Krakow. Ngày 1-10-1978, ở tuổi 58, Ngài Karol Wojtyla (tên của Đức
Giáo Hoàng Gioan Phaolô II) đã rời thành phố đó với cương vị hồng y giáo chủ.
Ngài nhìn xuống những khung cảnh quen thuộc: “Tôi trở về, tôi trở về để gặp lại
Giáo Hội mà từ đó tôi đã ra đi”, ngài đã nói như thế với thủ tướng Italia G
Andreotti khi rời khỏi Roma. Từ khoang lái, phi công có thể nhìn thấy những
dòng người vô tận đang đi tới trung tâm Vacxava và những đám đông tập họp lại
dọc theo con đường mà Đức Giáo Hoàng sẽ đi từ sân bay vào thành phố. “Với tôi,
đây là một chuyến trở về nhà”, Đức Giáo Hoàng mỉm cười nói với một nhà báo
người Balan.
Khi Đức Giáo Hoàng quỳ xuống hôn lên mặt đất tại sân bay và ôm hai
bé gái đến chào đón Ngài, với những lẵng cẩm chướng trắng và đỏ (những sắc màu
của Balan) cùng với những bông huệ trắng và vàng (những sắc màu của Vatican),
tiếng vang của những hồi chuông kia đã dội tới các đường biên giới của Đông
Đức, vượt qua biên giới Tiệp Khắc, băng qua những rào chắn của Ukraina và Belorussia
ở Liên Xô và của nước Latvia.
Trong những ngày tiếp theo đó, ý
nghĩa của những hồi chuông nhẫn nại này sẽ trở nên rõ ràng hơn đối với hàng triệu
người. Nghi lễ trong những giây phút đầu tiên của chuyến viếng thăm này đã xác
nhận rằng trong cả một ngàn năm, Giáo Hội Balan vẫn là hiện thân của dân tộc
Balan, bất chấp những cuộc chiến tranh, giềt chóc, chia cắt, thanh trừng…
Trên khắp nước Balan, màu cờ đỏ của
của chủ nghĩa cộng sản dường như đã biến mất một cách kỳ lạ, và ở đó chỉ còn lá
cờ của quốc gia Balan và của Tòa Thánh. Trong chín ngày sau đó, dân chúng Balan
và đặc biệt giới trẻ sống trong một tâm trạng phấn khởi, xem như họ mục kích sự
xuất hiện của một đấng cứu tinh. Cảm giác này rất choáng ngợp và không thể
cưỡng lại được.
Thoạt nhìn thấy ngôi nhà thờ lớn,
gương mặt Đức Giáo Hoàng thay đổi và những giọt nước mắt bắt đầu chảy dài trên hai
gò má của Ngài. Một số người xung quanh Ngài gào thét lên, thế nhưng nhiều
người khác không reo hò mà chỉ đắm nhìn Ngài và cũng giống như Ngài, khóc để
những tình cảm dịu bớt. Thánh lễ của Đức Giáo Hoàng được cử hành ở trung tâm
Quảng Trường Chiến Thắng, nơi có tượng đài chiến sĩ vô danh của Balan, thường
chỉ có đảng cộng sản sử dụng quảng trường này cho các cuộc duyệt binh, mít tinh
quần chúng. Khi Đức Giáo Hoàng đến quảng trường vào lúc 4 giờ chiều hôm đó, ba
trăm ngàn người đang chờ đợi và hàng chục ngàn người khác không được cho vào đã
tập trung quanh khu vực trung tâm thành phố.
Trong thánh lễ, Đức Giáo Hoàng đưa
ra một tuyên ngôn mà các nhà lãnh đạo đảng cộng sản Vacxava lo sợ nhất: “Đối với
Balan, Giáo Hội đã đưa Chúa Giêsu tới, chiếc chìa khóa để hiểu được thực tiễn
vĩ đại và cơ bản là con người… Không thể loại Chúa Giêsu khỏi lịch sử nhân loại
ở bất kỳ nơi đâu trên trái đất này, tại bất kỳ kinh tuyến hay vĩ tuyến nào của
hành tinh. Loại trừ Chúa Giêsu khỏi lịch sử nhân loại là một tội ác chống lại
loài người”.
Với những lời đó, Đức Giáo Hoàng đã bãi bỏ toàn bộ chính sách
phương đông Ostpolitik mà Vatican đã thúc đẩy suốt hai mươi năm trước đó. Các
Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII và Phaolô VI đã theo chính sách đó để giảm bớt căng
thẳng giữa Giáo Hội và các chế độ cộng sản, để làm bớt đi khả năng diễn ra các
cuộc thanh trừng mới, để có thêm nhà thờ được xây lên, thêm linh mục, giám mục
được bổ nhiệm, nói tắt là để đưa đến cùng tồn tại hòa bình, nhưng mất đi tiếng
nói ngôn sứ của Giáo Hội.
Điều đang diễn ra giờ đây ở Quảng trường Chiến Thắng
của Vacxava là một bước đột phá lớn đối với Giáo Hội ở Balan, Đông Âu, Liên Xô
và trong các vấn đề quốc tế. Qua Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, Giáo Hội đang
tuyên bố một vai trò mới và qua Ngài, Giáo Hội đang đòi phải tôn trọng nhân
quyền cũng như giá trị của Kitô giáo. Những đòi hỏi này thể hiện một cuộc tấn
công trực diện vào những kỳ vọng phổ biến của cộng sản, cái mà giờ đây đã trở
thành một cái vỏ rỗng tuếch tại các nước nằm dưới ảnh hưởng của Xô Viết.
Chuyến đi đầu tiên của Đức Giáo
Hoàng tới Balan là một biểu hiện công khai ngoạn mục về quyền lực tiềm tàng của
Ngài.
Đức Giáo Hoàng và đảng cộng sản Balan
Ngày đầu tiên trở về Balan trong hào quang chiến thắng, ngày 2-6-1979, Đức Giáo Hoàng đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản Balan và Liên Xô run sợ. Ngay những lời đầu tiên của Đức Giáo Hoàng trong cuộc nói chuyện với Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Balan, Edward Gierek, đã gây náo động. Đức Giáo Hoàng đã phát biểu công khai hy vọng của Ngài về một bản thỏa thuận giữa Giáo Hội và chính quyền, điều mà ông Edward Gierek không hề muốn. Đức Giáo Hoàng cũng đưa ra danh mục một loạt các điều kiện được đặt ra để thuyết phục nhà cầm quyền cộng sản tin rằng họ sẽ phải tồn tại một cách hòa bình với Giáo Hội.
Ngày đầu tiên trở về Balan trong hào quang chiến thắng, ngày 2-6-1979, Đức Giáo Hoàng đã làm cho nhà cầm quyền cộng sản Balan và Liên Xô run sợ. Ngay những lời đầu tiên của Đức Giáo Hoàng trong cuộc nói chuyện với Bí thư thứ nhất Đảng Công nhân Thống nhất Balan, Edward Gierek, đã gây náo động. Đức Giáo Hoàng đã phát biểu công khai hy vọng của Ngài về một bản thỏa thuận giữa Giáo Hội và chính quyền, điều mà ông Edward Gierek không hề muốn. Đức Giáo Hoàng cũng đưa ra danh mục một loạt các điều kiện được đặt ra để thuyết phục nhà cầm quyền cộng sản tin rằng họ sẽ phải tồn tại một cách hòa bình với Giáo Hội.
Khi ông Edward Gierek nói về sự hòa
dịu trong quan hệ quốc tế, Đức Giáo Hoàng đáp lại: “Hòa bình và việc thiết lập
lại các mối quan hệ phải được đặt trên cơ sở tôn trọng quyền bình đẳng giữa các
dân tộc, trong đó có quyền xây dựng và tạo lập nền văn hóa, văn minh riêng của
họ”.
Khi ông E. Gierek nói về những cam
kết an ninh và vị trí của Balan trong cộng đồng quốc tế, ông muốn đề cập đến liên
minh trong khối COMECON và hiệp ước Varsava (cả hai khối này đều hoàn toàn bị
chi phối và điều hành bởi Liên Xô), Đức Giáo Hoàng nói: “Tất cả các loại hình
nô dịch về chính trị, kinh tế, văn hóa đều đi ngược lại với sự đòi hỏi của luật
lệ quốc tế.
Những hiệp ước đảm bảo là những hiệp ước dựa trên cơ sở sự tôn
trọng lẫn nhau và công nhận lợi ích của mỗi dân tộc”. Sự thẳng thắn và dũng cảm
của Ngài đã bất ngờ thuyết phục được nhà lãnh đạo cộng sản, ông Gierek tỏ ý sẳn
sàng ký một giải pháp cơ bản về các hoạt động của Giáo Hội trong xã hội Balan,
Đức Giáo Hoàng muốn chính quyền Balan công nhận rằng: Giáo Hội phục vụ con
người trong khía cạnh cuộc sống trần thế của họ, và đó là các hoạt động chính trị
và xã hội của họ.
Tất cả những điều Đức Giáo Hoàng
nêu lên, đã làm cho đảng cầm quyền ở Balan và Liên Xô sợ. Bằng những bài phát biểu
mạnh mẽ, Ngài thách thức thế giới quan, tư tưởng của chế độ Cộng Sản, đặt vấn
đề về vai trò của nhà nước, về mối liên minh giữa Balan và Liên Xô, kể cả về
những sự phân chia bản đồ địa lý – chính trị ở Châu Âu sau chiến tranh thế giới
thứ II.
Tướng Jaruzelski, người đang theo dõi các hoạt động của Đức Giáo Hoàng
từ trung tâm chỉ huy ở Bộ Quốc phòng, có thể thấy các đồng chí của ông trong Bộ
Chính trị Balan đã cực kỳ bối rối, thậm chí sợ hãi. Đối phó và phản ứng lại Đức
Giáo Hoàng, đó là vấn đề nan giải đối với Kremlin. Nghiêm trọng là nhiều đoạn
trong bài diễn văn của Đức Giáo Hoàng, theo họ, đã vượt quá những khuôn khổ
hoạt động tôn giáo một cách nguy hiểm. Bí thư thứ nhất của Đảng cộng sản Balan,
Gierek và Thủ tướng Piotr Jaroszewicz đã bày tỏ sự quan tâm của họ về cái gọi
là “sự lật đổ”.
Đế chế cộng sản rung động
Mùa hè 1980, những cuộc đình công
đã gây chấn động ở Balan. Đây không hoàn toàn là những cuộc đình công, mà còn là
những cuộc nổi loạn chính trị, như Brezhnev nhận xét, chính xác là “cuộc phản
cách mạng”.
Phong trào này, giống như tất cả
các cuộc cách mạng xã hội mang tính lịch sử, đã tập họp được một nhóm lực lượng
chính trị ghê gớm – những người lao động, giới trí thức và Giáo Hội – mà trước
đây họ không hề thống nhất với nhau được một cách dứt khoát, rõ ràng đến như
vậy. Một ủy ban bảo vệ công nhân đã được thiết lập, viết tắt là KOR, do những
nhà trí thức thành lập, nhằm giúp đỡ những công nhân bị bắt giữ hoặc bị xử bắn
sau lần bạo động nổ ra năm 1976.
Câu lạc bộ những nhà trí thức theo
Kitô Giáo, các Giám Mục, có sự hậu thuẫn của Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, bây
giờ đang tiến hành thử nghiệm truyền đạo qua Tin Mừng về nhân quyền. Phong trào
công đoàn độc lập bắt đầu hình thành trong các thành phố chính, trong suốt năm
1978 – Công đoàn Tự do được hình thành.
Lech Walesa đứng ra tổ chức cuộc
đình công ở xưởng đóng tàu Lênin. Walesa đưa ra một bản yêu cầu gồm 16 điểm, quan
trọng nhất trong đó là sự công nhận của Chính Phủ về các công đoàn tự do. Mặc
dầu cuộc đình công lúc đầu bị giới công nhân dự định hủy bỏ vì nhà nước đã tăng
lương, nhưng rồi với sự thuyết phục của Walesa, cuộc đình công vẫn tiếp tục tái
diễn, với sự tham gia rất đông công nhân. Walesa đưa ra một bản yêu cầu mới với
21 điểm cơ bản.
Nội dung của cuộc đình công và đòi hỏi mới có tính táo bạo của
công nhân đã lan nhanh trên khắp vùng biển Baltic. Ngày làm việc đã bị đình lại
trong hơn 180 xí nghiệp. Những người tham gia đình công đã tỏ bày những bất
bình của họ đối với chế độ bằng cách hát thánh ca và các bài hát yêu nước, và
phất cờ tổ quốc trong những nhà máy đang đình công. Người ta báo cho Đức Giáo Hoàng:
“Những hạt giống được Đức Thánh Cha gieo vãi đang nở hoa”.
Vụ ám sát Đức Giáo Hoàng
Ngày 13-05-1981, Đức Giáo Hoàng bị
ám sát bởi Mehmet Ali Agca. Vụ ám sát này được giám đốc CIA, Robert Gates coi như
âm mưu của Cộng Sản Liên Xô. Agca được bảo vệ và bao che bởi cơ quan tình báo
Bungari, một tổ chức lệ thuộc vào cơ quan KGB của Liên Xô. Và đó cũng là nhận
định của Andreotti, người lãnh đạo đầy quyền lực của Đảng Dân Chủ Thiên Chúa
Giáo Italia.
Những người cộng sản Liên Xô muốn
giết hại Đức Giáo Hoàng, vì cái chết của Ngài dường như là cách duy nhất nhằm bóp
chết Công đoàn Đoàn kết. Hồng Y Achille Silvestrini, thứ trưởng Bộ Ngoại Giao
của Toà Thánh cũng xác nhận: “Nếu âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng thành công, thì
đó sẽ là tấm bia mộ cho Balan, và cho những người đang đối đầu với sự kiểm soát
của hệ thống Xô Viết”.
Đáp lại sự lên án của phương Tây,
Liên Xô cho rằng cùng với một số âm mưu khác, Mỹ đã đứng đàng sau âm mưu ám sát
Đức Giáo Hoàng.
Đức Giáo Hoàng tin rằng: số phận
của Ngài được bảo vệ nhờ phép lạ của Đức Mẹ Fatima… “Một người nổ súng nhưng
một người khác lại hướng dẫn quỹ đạo viên đạn”. Ngài đã gởi đến
Liên Xô một tín hiệu “tha thứ”.
Cuộc đấu tranh không khoan nhượng
Ngày 18-08, trong một bài nói
chuyện được phát trên truyền hình, Gierek đã hứa cải tổ và đưa ra sự đe dọa:
“Vận mạng của đất nước gắn liền với hệ thống xã hội chủ nghĩa …, những nhóm người
vô chính phủ, chống lại chủ nghĩa xã hội đang cố gắng khai thác triệt để tình
hình, nhưng chúng ta sẽ không dung thứ bất kỳ một yêu sách hay hoạt động nào
nhằm mục đích phá hủy trật tự xã hội ở Balan.”
Các đơn vị quân đội và hàng loạt xe
cảnh sát đã bắt đầu tràn về phía bờ biển Baltic. Nhưng số lượng người tham gia
đình công đã tăng vọt, lên đến khoảng 300.000 người.
Các cuộc đình công đã lan
tràn khắp nơi. Cương lĩnh mà Walesa đã chuyền tới tay công nhân là hoàn toàn
nghi ngờ toàn bộ hệ thống chế độ cộng sản. Lời kêu gọi đối với các công đoàn
độc lập đã gạt bỏ những lý lẽ cho rằng chỉ có đảng cộng sản là một đại diện duy
nhất mang tính lịch sử cho tầng lớp lao động. Sự đòi hỏi hủy bỏ các cơ quan
kiểm duyệt báo chí, thông tin và đòi quyền sử dụng các phương tiện thông tin
đại chúng cho các công đoàn tự do và Giáo Hội, đã phủ nhận quyền sử dụng của
đảng cộng sản về công cụ đầy hiệu quả này để duy trì sự độc tôn về quyền lực.
Ngày 20-08, khi phong trào đình
công bị đe dọa, dẫn đến tình trạng tê liệt mọi hoạt động có màu sắc chính trị lâu
dài, Đức Giáo Hoàng nói với một nhóm người Balan hiện diện tại Quảng trường
Thánh Phêrô ở Rôma: “Chúa
ban cho chúng con, qua sự can thiệp giúp đỡ của Đức Mẹ, biết rằng tôn giáo có
thể luôn luôn được hưởng tự do và rằng tổ quốc chúng ta có thể được hưởng sự an
ninh. Lạy Chúa, xin giúp đỡ những con người này và luôn luôn che chở họ khỏi
mọi hiểm nguy, cám dỗ và điều ác.” Sau đó Đức Giáo Hoàng nói thêm: “Lời cầu nguyện trên đây
cho thấy rằng tất cả chúng ta ở Rôma đều thống nhất với những người yêu nước ở
Balan, với Giáo Hội ở Balan, mà những vấn đề của họ có liên quan mật thiết với
trái tim của chúng ta.”
Ngày 23-08 một cuộc tranh chấp kịch
liệt nổ ra trong trong đảng cộng sản Balan, giữa phe cứng rắn muốn áp đặt thiết
quân luật và nhóm người tán thành sự thỏa hiệp và tránh sử dụng quân đội. Cùng
hôm đó, Đức Giáo Hoàng đưa ra một mệnh lệnh chính trị rõ ràng: “Tôi cầu mong với tất cả
lòng nhiệt thành rằng: các Giám Mục của Balan, thậm chí ngay bây giờ, có thể
giúp đỡ đất nước trong cuộc đấu tranh đầy khó khăn, để dành lấy bánh hằng ngày,
dành lấy công bằng xã hội, sự bảo đảm quyền bất khả xâm phạm cho sự sống và sự
phát triển của Balan.”
Vào đêm đó, chính phủ đã thực hiện
một sự nhượng bộ có tính lịch sử, chấp nhận đàm phán với các ủy ban đình công của
3 thành phố. Ngay từ đầu, cuộc đàm phán đã trở thành một cuộc chất vấn đầy kịch
tính, kéo dài một tuần. Một nhóm cố vấn đã xuất hiện ngay bên cạnh Walesa. Nhóm
này gồm các trí thức, giáo sư và viện sĩ Viện Hàn Lâm Khoa Học Balan. Hai trong
số những người này có quan hệ mật thiết với Đức Giáo Hoàng. Với sự xuất hiện
nhóm này, sự lãnh đạo chiến lược của phong trào (Công đoàn Đoàn kết) được
chuyển giao hầu hết cho Giáo Hội.
Lập trường kiên định của Đức Giáo
Hoàng sẽ quyết định cuộc khủng hoảng ở Balan. Ngày 27-08, với sự chỉ đạo của Đức
Giáo Hoàng, các Giám Mục Balan đã thông qua một tài liệu và tuyên bố một cách
dứt khoát quyền độc lập của các tổ chức đại diện cho công nhân và của các tổ
chức tự quản. Ý chí của Đức Giáo Hoàng đã trở thành ý chí của cả dân tộc. Giờ
đây, chính phủ không còn gì nhiều để lựa chọn, ngoài việc phải chấp nhận. Lech
Walesa biết rằng ông đã được Đức Giáo Hoàng ủng hộ.
Ngày 05-09, Edward Gierek mất chức
bí thư của Đảng Cộng Sản Balan. Liên Xô chuyển cho Đức Giáo Hoàng một thông điệp
yêu cầu Đức Giáo Hoàng kiềm chế Công đoàn Đoàn kết trong việc đưa ra các yêu
sách và những vấn đề dễ gây căng thẳng. Đàng khác, qua thông điệp này, họ thông
báo rằng, họ sẽ dùng quân đội để can thiệp, nếu Công đoàn Đoàn kết đe dọa những
lợi ích sống còn của Liên Xô. Đức Giáo Hoàng cố gắng tìm kiếm một sự cân bằng
khó khăn và mong manh. Đó là ủng hộ Công đoàn Đoàn kết, giữ cho Liên Xô không
can thiệp, tránh không đi quá xa trong các yêu sách và tránh khiêu khích chính
quyền.
Vào mùa thu năm 1980, những người
cộng sản ở Berlin (Đức), Budapest (Hungari), Praha (Tiệp Khắc) thực sự hoảng sợ
bởi những gì đang xảy ra ở Balan.
Lech Walesa đến Rôma yết kiến Đức
Giáo Hoàng. Ngài đã tổ chức một thánh lễ riêng cho 14 thành viên của đoàn đại biểu
của Công đoàn Đoàn kết. Đức Giáo Hoàng cũng tiếp Lech Walesa 2 lần. Ngài nói
với phái đoàn: “Tôi
tin rằng điều cơ bản trong những hành động mạo hiểm của các bạn bắt đầu từ
tháng 08-1980 ở miền duyên hải và ở những trung tâm công nghiệp lớn khác của
Balan, là một xung lực chung nhằm thúc đẩy những việc đạo đức tốt đẹp cho xã
hội.”
Đức Giáo Hoàng đã viết thư cho
Brezhnev đòi Liên Xô phải tôn trọng chủ quyền của Balan và quyền lợi hợp pháp
của Balan.
Ở Balan, Jaruzelski thì sợ rằng khi
Công đoàn Đoàn kết thực sự nắm quyền, ông có thể bị cầm tù hoặc tử hình. Hơn thế
nữa, điều quan trọng là vì ông là một người cộng sản trung thành, đã cam kết
phấn đấu cho chủ nghĩa cộng sản và cho một nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Balan.
Ông biết rằng sự thành công của Công đoàn Đoàn kết là sự kết thúc của chủ nghĩa
cộng sản ở Balan. Hơn thế nữa, nó sẽ kéo theo những hậu quả ghê gớm về lâu về
dài đối với hệ thống cộng sản toàn thế giới.
Giữa đêm thứ bảy, ngày 13-12-1981, Jaruzelski
ban bố lệnh thiết quân luật. Hơn 10.000 người liền bị bắt. Đến nửa đêm, xe tăng
và binh lính đã di chuyển vào các đường phố trên khắp đất nước.
Những phản ứng ban đầu của Đức Giáo
Hoàng là cầu nguyện cho việc chỉ đường vạch lối cho người Balan. Điều e ngại lớn
nhất của Đức Giáo Hoàng là người Balan sẽ quay lại chống người Balan, và rằng
sẽ có một cuộc tắm máu. Nếu dân chúng Balan đổ xô ra đường phố, điều đó sẽ tạo
cho người Xô Viết cái cớ để can thiệp vào Balan và gây ra đổ máu nhiều hơn. Sự
áp bức là không thể thay đổi được.
Đức Giáo Hoàng tuyên bố: “Có quá nhiều máu của
người Balan đã đổ xuống, nhất là trong cuộc chiến tranh cuối cùng. Không thể để
cho máu của người Balan phải đổ thêm nữa. Mọi việc phải được làm để xây dựng
một tương lai hòa bình.” Sau đó, Ngài đã giao phó người Balan cho
Đức Mẹ, “Người
được phái tới để bảo vệ chúng ta”
Đức Giáo Hoàng đã giao cho ông
Jaruzelski một lá thư. Ngài nói: “Những sự kiện gần đây ở
Balan, kể từ khi tuyên bố thiết quân luật ngày 13-12, đã dẫn đến kết quả là
nhiều người bị giết và bị thương.Và tôi buộc phải gởi đến ngài lời thỉnh cầu
khẩn thiết và chân thành này, cầu mong chấm dứt việc đổ máu ở Balan.”
Trong cuộc gặp Jeruzelski, Đức Giáo
Hoàng khẳng định quyền độc lập của Balan, và nêu lên vấn đề thiết quân luật.
Ngài nói: “Đối với
tôi, việc giải tán các công đoàn đau đớn hơn nhiều so với việc ban bố thiết
quân luật hồi tháng 12 – 1986… Tôi quan tâm đến việc đạt tới một tình trạng
bình thường càng sớm càng tốt”. Ý ngài muốn nói đến tình trạng
thiết quân luật.
Sau 18 tháng thi hành thiết quân
luật, Công đoàn Đoàn kết không còn là một tổ chức lớn mạnh của công nhân, vai trò
lãnh đạo bị xóa bỏ và hàng loạt các trụ sở bị đóng cửa. Nhưng qua chuyến thăm
Balan của Đức Giáo Hoàng, Công đoàn Đoàn kết đã trở thành một tư tưởng, một
lương tri, một chân giá trị. Nó là một sự thách thức đối với nhà nước Balan.
Bốn năm ba tháng sau khi ban bố
thiết quân luật ở Balan, Mikhail Gocbachev được bầu làm Tổng bí thư Đảng cộng sản
Liên Xô. Mùa xuân năm đó, Đức Giáo Hoàng được biết Gocbachev có thể sẽ là một
dạng cộng sản kiểu khác. Trở thành Tổng bí thư được vài tuần, Gocbachev muốn
biết trực tiếp càng nhiều càng tốt. Gocbachev là người chủ trương Perestroika (cải
tổ) nên rất cởi mở, làm cho tướng Jaruzelzki cảm thấy có người thương cảm với
mình, mà đó lại là Tổng bí thư cộng sản Liên Xô, đảm bảo rộng rãi các quyền về
tôn giáo cho các công dân cộng sản.
Jaruzelski đề nghị với Gocbachev nhìn nhận
Vatican như là một thế lực đáng tin cậy. Ông nói: “Tôi cho rằng Giáo Hội là một
sức mạnh khổng lồ ở Balan, nghiêng về phía đối lập, nhưng nó vẫn có một vị trí
khá lành mạnh”. Ông cũng nói: “Đức Giáo Hoàng có một nhân
cách tuyệt vời , một nhà nhân văn vĩ đại, một nhà yêu nước vĩ đại. Ngài không
chỉ là một lãnh tụ một tôn giáo vĩ đại, một Giáo Hội vĩ đại, mà còn là một
người con của một quốc gia có số phận đặc biệt khó khăn”.
Sự xuất hiện của Gobachev đem đến
sự thay đổi nhanh chóng đối với quan hệ “Giáo Hội – Nhà Nước” ở Balan và tạo ra
bầu một không khí an toàn để Jaruzelski bắt đầu nới lỏng các hạn chế gắn liền
với thiết quân luật. Đức Giáo Hoàng phấn khởi và hy vọng vào những đổi thay mà
Gobachev đang khởi xướng. Ngài nói: “Ông ta là một người tốt
nhưng ông sẽ thất bại bởi vì muốn làm một điều không bao giờ có thể làm được.
Chủ nghĩa cộng sản không bao giờ có thể cải cách được”. Ngài còn
nói thêm: “Perestroika
là một dòng thác mà chúng ta đã tháo cho chảy và nó sẽ tiếp tục chảy.
Perestroika là sự tiếp tục của Đoàn kết. Không có Đoàn kết sẽ không có
Perestroika”. Dòng thác này tuôn chảy sang
Tiệp Khắc.
Nhân dịp Đức Giáo Hoàng phong công
chúa Bohemia của Tiệp Khắc lên bậc hiển thánh, Đức Hồng Y Tomasek đã có một tuyên
bố nẩy lửa trước 200 ngàn người biểu tình tại Praha ngày 21-1-1989. Sau khi đề
cao công chúa Anê miền Bohemia của Tiệp Khắc, ngài nói tiếp: “Về phần tôi , tôi không
thể nào tỏ ra xa lạ với định mệnh quốc gia chúng tôi và toàn thể đồng bào đất
nước tôi.
Tôi không thể yên lặng trong lúc tất cả anh chị em đang hợp lực với
nhau để phản đối những bất công mà anh chị em phải chịu từ 40 năm nay; người ta
không thể duy trì lòng tín nhiệm đối với giới lãnh đạo quốc gia không muốn nói
sự thật và chối bỏ các quyền lợi và các quyền tự do của nhân dân với truyền
thống có từ hàng ngàn năm nay, những quyền này vẫn được coi là những quyền bình
thường trong những quốc gia trẻ trung hơn đất nước chúng ta”.
Sau
khi kể những đau khổ người dân phải chịu trong 40 năm, ngài kết luận: “Tôi muốn ngỏ lời với tất
cả anh chị em trong giờ phút quyết liệt này của lịch sử chúng ta. Không ai
trong anh chị em được đứng ngoài lề. Hãy lên tiếng hợp với tất cả công dân Tiệp
Khắc,cùng với những người thuộc sắc tộc khác, dẫu họ là tín hữu hay không có
tín ngưỡng.
Quyền tự do tín ngưỡng không thể tách khỏi những quyền dân chủ
khác, tự do là điều không thể phân chia được. Tôi xin chấm dứt nơi đây với
những lời đã từng vang dội đã lâu trong lịch sử của chúngta: “Với sự giúp đỡ
của Thiên Chúa, số phận của chúng ta ở trong tay chúng ta”.
Mặc dầu các lãnh tụ cộng sản ở Đông
Âu như Gustav Husak (Tiệp), Erich Honecker (Đông Đức), Nicolas Ceausescu (Rumani),
Janos Kadar (Hungari) chống chủ chương dân chủ hóa của Gocbachev, cuộc dân chủ
hóa vẫn được tiếp tục. Các lãnh tụ cộng sản Đông Âu sợ rằng kiểu đa nguyên sẽ
kết liễu chủ nghĩa cộng sản.
Đế chế cộng sản đã giẫy chết
Ngày 8-6-1987, Đức Giáo Hoàng Gioan
Phaolo II lại thực hiện một cuộc trở về Balan lần thứ 3 hết sức thành công để
phục hồi Công đoàn Đoàn kết. Đức Giáo Hoàng nhận thấy rằng sự kết thúc của chế
độ cộng sản đang đến gần.
Ngày 6-2-1989, trên đất nước Balan
nổ ra các cuộc biểu tình phản đối việc tăng giá cả; đại diện của chính phủ và các
phe đối lập đã ngồi lại với nhau thương thuyết bàn tròn về tương lai của Balan.
Sự kết thúc của một kỷ nguyên đã tới. Hiệp định cốt lõi đạt được.
Các cuộc đàm
phán bàn tròn đã cho phép tiến hành các cuộc bầu cử tự do vào tháng 6 cho các
ghế của một bộ máy được gọi là Thượng Viện. Đồng thời, tính hợp pháp đầy đủ của
Công đoàn Đoàn kết cũng được công nhận. Khi các cuộc bầu cử được tiến hành ngày
4-6 thì Công đoàn Đoàn kết đã giành thắng lợi hoàn toàn và chính thức lên nắm
quyền lực.
Sự sụp đổ của Balan đã gây ảnh
hưởng làm lung lay khối Đông Âu trong những ngày cuối mùa đông, cho đến khi
không còn khối nào tồn tại.
Quân cờ domino cộng sản đang bị đảo lộn: Hungari, Đông
Đức, Bulgary, Rumani. Và tiếp đó là Liên Xô. Gocbachev tuyên bố: “Tôn giáo đã
giúp cho cải tổ. Chúng ta đã từ bỏ đòi hỏi có sự độc quyền về chân lý … Ngay
lập tức chúng ta sẽ không cho rằng những ai không đồng tình với chúng ta là kẻ
thù”. Điều này thực sự là “một trật tự thế giới mới”.
Ngày 1-2-1989, Gocbachev, Tổng bí
thư Đảng cộng sản Liên Xô yết kiến Đức Giáo Hoàng tại Vatican lần đầu tiên. Trong
hơn 60 năm qua, Giáo Hội Công Giáo và điện Kremlin đã đấu tranh với nhau dữ
dội.
Thế là chế độ cộng sản đã sụp đổ
tại Đông Âu và Liên xô. Cuộc gặp đầu tiên giữa Tổng bí thư Liên Xô và Đức Giáo Hoàng
Gioan Phaolo II tại Vatican đã hình tượng hóa phong phú cho một kỷ nguyên cuối.
Vào lúc rạng sáng ngày 19-8-1991,
trong một cuộc đảo chính, các thành viên bảo thủ trong Bộ chính trị đã nắm lấy quyền
lực tại Matxcơva, giam lỏng Gocbachev trong ngôi nhà nghỉ của ông ở Crimê.
Boris Yeltsin, Tổng thống Cộng hòa liên bang Nga chống lại cuộc đảo chính và
biến tòa nhà quốc hội Nga thành đại bản doanh của Sở chỉ huy lực lượng chống
đối. Sự chống đối của ông đã nhanh chóng thúc giục các nước phương Tây ủng hộ
ông. Ngày 23-8, đúng cái ngày các lãnh tụ của cuộc đảo chính đầu hàng, Đức Giáo
Hoàng đã gửi một bức điện cho Gocbachev: “Tôi xin cám ơn Chúa, vì
sự kết thúc có hậu quả của cuộc thử thách đầy kịch tính kéo theo nhân dân, gia
đình và cả đất nước của ngài. Tôi xin bày tỏ niềm mong ước của tôi rằng ngài có
thể tiếp tục sự nghiệp vĩ đại của mình vì công cuộc đổi mới cả về vật chất và
tinh thần cho các dân tộc Liên Xô, những người mà tôi thường cầu nguyện cho họ”.
Thắng lợi của lực lượng chống đối của Yeltsin đã trở thành biểu tượng cho ý chí
của nhân dân nhằm xóa bỏ chế độ cộng sản một lần và mãi mãi.
Về cuộc sụp đổ đế quốc cộng sản,
Đức Giáo Hoàng nói: “Có thể
là đơn giản khi nói rằng Đấng Tối Cao đã gây ra sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng
sản. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ, vì hậu quả của những lỗi lầm và sự đối xử
tồi tệ của riêng nó. Chủ nghĩa cộng sản tự nó sụp đổ vì sự yếu kém cố hữu của
nó”.
Lm. Chân Tín
Sài Gòn 25-4-2011
__._,_.___
No comments:
Post a Comment