Lý lẽ để̉
Mỹ dỡ bỏ Cấm vận Vũ khí đối với Việt Nam
Hiếu Tân
dịch
Có lí do mạnh mẽ để Mỹ dở bỏ cấm vận vũ khí sớm hơn
thay vì muộn hơn.
Tàu ngầm lớp Kilo của Nga mà Việt Nam hiện
đang vận hành. Ảnh: Wikimedia Commons
Trước chuyến thăm của Tổng thống Barack Obama tới Việt Nam
cuối tuần này, các quan chức Hoa Kỳ – ít nhất là công khai – nói họ
còn chưa quyết định lần này có dỡ bỏ toàn bộ lệnh cấm vận vũ khí
cho Việt Nam, đã được nới lỏng năm 2014, hay không. Mặc dầu việc dỡ
bỏ hoàn toàn cấm vận này chỉ còn là vấn đề thời gian trong bối
cảnh quan hệ đối tác toàn diện Mỹ Việt đang nảy nở, có lí do mạnh
mẽ nên giải quyết nó dứt điểm sớm hơn chứ không phải muộn hơn.
Trong mấy năm qua Việt Nam đã nổi lên như một nước có vai
trò ngày càng trung tâm trong chiến lược Châu Á Thái Bình Dương của
Hoa Kỳ, mặc dù những thách thức dai dẳng suốt hai thập niên trong quan
hệ ngoại giao giữa hai nước.
Chắng hạn về kinh tế, Hà Nội là một
trong chỉ bốn nước Đông Nam Á tham dự hiệp ước Đối tác Xuyên Thái
Bình Dương (TPP) do Mỹ dẫn đầu và là đối tác quan trọng trong những
sáng kiến địa phương cũa Mỹ đang tiến hành, như Sáng kiến vùng Hạ
sông Mekong (LMI). Còn về quốc phòng, Việt Nam đang trên tuyến đầu cuộc
tranh chấp ở Biển Đông, đã không chỉ là một thành viên của những
sáng kiến then chốt của Mỹ như Sáng kiến An ninh Hàng hải Đông Nam Á
(MSI), mà còn cộng tác với Hoa Kỳ trong việc tăng cường đóng góp vào
an ninh toàn cầu trong những lĩnh vực như gìn giữ hoà bình.
Mặc dầu thế, một cấm vận những vũ khí sát thương – để
lại trong hồ sơ của nhiệm kì tổng thống Bill Clinton khi bắt đầu bình
thường hoá – vẫn còn nguyên, dù đã được nới lỏng tháng Mười năm
2014. Mặc dù đang lan truyền một dự đoán là chính quyền Obama cuối
cùng có thể dỡ bỏ hoàn toàn, hôm thứ Năm Ben Rhodes một trong những
cố vấn thân cận nhất của Tổng thống, nói với các nhà báo rằng chưa
có quyết định nào, và Obama sẽ đưa ra những nét lớn về cách chính
quyền của ông tiếp cận vấn đề cấm vận trong cuộc họp với các quan
chức Việt Nam trong chuyến đi.
Dù chính quyền lựa chọn tiến hành theo cách nào, rõ
ràng việc dỡ bỏ cấm vận này sẽ thúc đẩy mối quan hệ về cả về biểu
tượng lẫn thực chất. Về mặt biểu tượng, như các quan chức Việt Nam
đã nhiều lần chỉ ra, việc dỡ bỏ sẽ là một dấu chỉ rằng các mối
quan hệ đã được hoàn toàn bình thường hóa, và nếu nó được thực
hiện trước khi Obama hết nhiệm kì, nó sẽ giống như câu chuyện kể
rằng chính quyền này đã ưu ái mối quan hệ Mỹ-Việt, đặt quá khứ
sang một bên và nhìn về tương lai – thông qua việc giải quyết các hậu
quả chiến tranh hoặc mở ra một trường Đại học Fulbright mới ở Việt
Nam.
Nhìn rộng hơn, nó còn là lí lẽ mạnh mẽ khác trong chính
sách đối ngoại của chính quyền Obama, là có thể đạt được tiến bộ
ngay cả trong những mối quan hệ trước đó có nhiều thách đố. Như
Rhodes mô tả, trong một sự kiện diễn ra ở Trung tâm An ninh Mới của Hoa
Kỳ ở Washington D.C. đầu tuần này, một phần lớn chính sách đối
ngoại của chính quyền Obama đã được xác định bằng việc theo đuổi
những cơ hội trước đây chưa được khai thác để có tiến bộ trong những
mối quan hệ quan trọng – như có thể thấy trong thương lượng hạt nhân
với Iran, bình thường hóa các mối quan hệ với Cuba, và hứa hẹn
nhiều hơn với Myanmar. Mặc dầu những mối quan hệ với Việt Nam đã
được bình thường hóa từ năm 1995, tuy nhiên việc dỡ bỏ cấm vận là
hiện thực hóa một cơ hội trước đây chưa được khai thác như thế.
Về thực chất, việc dỡ bỏ cấm vận sẽ mở đường cho Hoa
Kỳ có thể bán vũ khí cho Việt Nam. Mặc dầu Việt Nam đã sớm có
lịch trình để nhận đội tàu tuần tra Metal Shark do Mỹ chế tạo, Hà
Nội có khả năng mua những căn cứ [platform] tàu biển và máy bay để
dùng cho quốc phòng. Bán vũ khí không chỉ là cơ hội tiềm tàng về
kinh tế cho các công ty Mỹ, mà còn là cơ hội chiến lược cho Washington
tham gia đầy đủ hơn vào việc xây dựng khả năng của Việt Nam, đến lượt
mình Việt Nam lại có thể đóng góp nhiều hơn cho an ninh thế giới.
Thượng nghị sĩ John McCain, cựu tù binh chiến tranh ở Việt Nam trong
một thời gian dài phản đối các mối quan hệ gần gũi hơn, đã tóm tắt
rất hay khi ông nói trong một tuyên bố hôm thứ Tư rằng “chúng ta không
thể yêu cầu đối tác của chúng ta đóng góp nhiều hơn trong khi tiếp
tục tiến hành hạn chế trực tiếp mức độ đóng góp của họ.”
Dỡ bỏ cấm vận cũng củng cố vị trí thương lượng của Mỹ
để tìm kiếm phát triển hơn nữa mối quan hệ quốc phòng song phương từ
Hà Nội. Với ý nghĩa của chuyển động này từ phía Mỹ, sẽ có khích
lệ hơn cho Việt Nam xem xét các đề xuất của Washington để thúc đẩy
hơn nữa mối quan hệ quốc phòng vốn trước đây đã bị gạt bỏ, bao gồm
những cam kết hải quân và thương mại quốc phòng như một phần của
tuyên bố chung về mối quan hệ quốc phòng do hai bên kí năm ngoái trong
chuyến thăm nước này của Bộ trưởng Quốc phòng Ashton Carter.
Nói cho rõ, những hợp đồng lớn về quốc phòng và chuyển
giao có thể phải mất thời gian bởi vì chúng còn tùy thuộc vào
những nhân tố khác, trong đó có việc để cho Việt Nam quen thuộc hơn
với những thủ tục mua bán của Mỹ, tương quan với những đối tác quốc
phòng truyền thống khác như Nga. Và cũng sẽ là không thực tế nếu
mong đợi một sự biến chuyển đột ngột về phương hướng chiến lược của
Việt Nam với Washington, chính sách ngoại giao đa phương của Hà Nội
cũng như mối lo ngại của nó về nước Trung Hoa láng giềng đang giận
dữ. Khi chính quyền này đã chủ thể hoá một cách đúng đắn, đây không
phải là một phần của cái chiến lược chịu đựng Trung Hoa, mà của
hàng loạt bước tiến giúp nuôi dưỡng một Việt Nam mạnh và vững có
khả năng tự bảo vệ và đóng một vai trò lớn hơn trong khu vực và trên
thế giới. Khi các cuộc thương lượng cuối cùng được thực hiện, những
căn cứ này, kết hợp với những cố gắng xây dựng năng lực khác như
MSI, có thể giúp tăng cường hoạt động liên hợp và tạo ra những hiệu
ứng phối hợp nhịp nhàng khác trong các quan hệ quốc phòng Mỹ-Việt.
Lý lẽ chính của những người phản đối dỡ bỏ cấm vận vũ
khí là một sự dỡ bỏ hoàn toàn sẽ phản lại những quan ngại kéo
dài về hồ sơ nhân quyền của Việt Nam. Chắc chắn rằng đấy là một
nhân tố trong những tính toán của Mỹ về bước đi giải quyết dỡ bỏ
cấm vận, nó đã là như thế trong nhiều năm và vẫn còn tiếp tục.
Các
nhóm hoạt động nhân quyền cũng đã chỉ ra một cách đúng đắn những
thí dụ đáng lo ngại về vi phạm trong mấy tuần gần đây trước cuộc
bầu cử Quốc hội vào ngày 22 tháng Năm, trong đó có việc ngược đãi
những người biểu tình sau một thảm hoạ môi trường liên quan đến đầu
độc cá. Nói rộng hơn, những chuẩn mực của những lí tưởng và những
mối quan tâm của Mỹ có ý nghĩa không chỉ đối với mối quan hệ Mỹ-Việt,
mà cho cả chương trình nhân quyền của Mỹ ở phạm vi tổng quát hơn.
Nhưng cũng đúng là những tiến bộ trong lĩnh vực này sẽ
luôn là nhích dần lên, bởi bản chất của chế độ của Việt Nam, và
nếu thúc đẩy Hà Nội quá mạnh và quá bất công về vấn đề này, thì
sẽ chỉ làm trầm trọng thêm mối nghi ngờ kéo dài, hơn là cải thiện
nó. Đúng như Mỹ có vấn đề với nhân quyền ở Việt Nam, Hà Nội cũng
có những quan ngại của nó – tuy không đúng chỗ – về những âm mưu của
Mỹ lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của nó thông qua “diễn biến hoà
bình”. Bất kì một đánh giá nào của Mỹ về hồ sơ nhân quyền của
Việt Nam cần phải công bằng và thực tế trong việc ghi nhận cả những
tiến bộ Hà Nội đến lúc này đã đạt được, cũng như những thách đố
vẫn còn trong bối cảnh môi trường chính trị nội bộ của nước này.
Đây không phải là sự đầu hàng mà là thỏa hiệp – một thành tố cần
thiết trong bất cứ mối quan hệ đối tác nào.
Hơn nữa, cho dù chính quyền có quyết định dỡ bỏ cấm
vận, thì vẫn còn những biện pháp để Hoa Kỳ sử dụng đòn bẩy lên
Việt Nam đối với những mối quan ngại hợp lí của Mỹ về nhân quyền.
Chắng hạn một điểm thường bị bỏ quên trong cuộc tranh cãi phân cực
này là, cho dù cấm vận được dỡ bỏ hoàn toàn, giống như với việc
dỡ bỏ một phần, cần có một quá trình khởi động để bất kì cuộc
chuyển giao vũ khí tiềm năng nào có thể thật sự cất cánh, điều này
theo luật pháp Hoa Kỳ cần được Quốc hội thông qua. Điều này cho Hoa
Kỳ ràng buộc vấn đề nhân quyền với những vụ mua bán cụ thể. Cũng
có những đòn bẩy khác bên ngoài cấm vận, cái rõ ràng nhất là TPP,
trong đó cũng có những đòi hỏi về nhân quyền, vì Việt Nam đã phải
tiến hành nhiều cải cách trong các lĩnh vực như lao động để đáp ứng
các tiêu chuẩn của hiệp định.
Một số người – kể cả những người ủng hộ việc cuối cùng
sẽ dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận – cho rằng bây giờ mà làm việc đó là
quá sớm. Họ chỉ ra sự kiện là có sự chống đối quan trọng trong
những nhóm của Quốc hội trên cơ sở nhân quyền, như thể hiện rõ trong
những phát biểu trong các buổi điều trần gần đây cũng như những bức
thư từ những nhà làm luật gửi trước chuyến thăm này.
Mặc dầu việc
dỡ bỏ hoàn toàn là quyết định chính sách của Bộ Ngoại giao sau
những cuộc thảo luận giữa các cơ quan và tham khảo với Quốc hội,
chính quyền có thể có lí do chiến lược của mình để không muốn thúc
đẩy nó lúc này. Với một số nhà làm luật đã phản đối việc Việt
Nam trở thành thành viên TPP vì nhiều lí do khác nhau, chính quyền có
thể lựa chọn đợi đến sau kì họp cuối cùng của nhiệm kì tổng thống
khi cuộc bỏ phiếu quyết định vào TPP được tổ chức, trước khi loan
báo việc dỡ bỏ hoàn toàn, Michael Green, cựu cố vấn hàng đầu Nhà
Trắng và là chuyên gia dài hạn về châu Á, nói trong một bản tin ngắn
hôm thứ Ba.
Mặc dầu có những xem xét về pháp lí về việc hoãn lại
dỡ bỏ hoàn toàn cấm vận, cũng có lí do về sự cần kíp – tất nhiên,
từ ý nghĩa của việc động thái này được làm trong chuyến thăm của
tổng thống tới Việt Nam, không nên xem thường. Nếu làm sớm, các lợi
ích của việc dỡ bỏ mang tính biểu tượng lẫn thực chất sẽ diễn ra
bên trong bối cảnh một quyết định của Toà Trọng tài Thường trực ở
Hague (PCA) về vụ Philippines kiện Trung Hoa về Biển Đông được chờ đợi
từ lâu sẽ đến trong vài tháng tới. Nó sẽ gửi một thông điệp mạnh
mẽ tới Trung Hoa, rằng với những hành động làm mất ổn định của nó
– bao gồm việc đặt giàn khoan trong vùng biển Việt Nam năm 2014 – Bắc
Kinh đang làm cho các nước xích lại gần hơn với Hoa Kỳ, và ngăn chặn
nó hữu hiệu hơn.
Dỡ bỏ cấm vận lúc này còn cho chính quyền Obama nhiều
thời gian hơn để theo sát những hạng mục khác trong quan hệ quốc
phòng Mỹ-Việt, trước cuộc chuyển giao cho Tổng thống Hoa Kỳ kế tiếp
vào tháng Giêng năm 2017. Như tôi đã nhấn mạnh trước, có một việc cấp
bách là Obama và đội ngũ của ông – vốn đã cam kết mạnh mẽ với Đông
Nam Á – hoàn tất càng nhiều càng tốt chương trình hành động dự định
của họ ở khu vực này, trước khi rời nhiệm sở.
Ngoài Hillary Clinton
ra, không có gì bảo đảm rằng bất kì một ứng cử viên tổng thống nào
sẽ nhất thiết biểu thị cùng một cách nhìn về Đông Nam Á. Thật vậy,
với một tổng thống kế tiếp phải đối diện với một thế giới náo
động và phân mảnh hơn – với một Nhà nước Hồi giáo nguy hiểm, Trung
Đông sôi sục, nước Nga nổi lên, châu Âu ẻo lả và nền kinh tế toàn cầu
yếu ớt – có lẽ sẽ ít tập trung hơn vào các nước Đông Nam Á như Việt
nam, ngay cả nếu quan hệ song phương tiếp tục có tiến bộ.
Tất nhiên, còn có những cách để phân tách sự khác nhau
về vấn đề này. Chính phủ có thể quyết định, chẳng hạn, nới lỏng
hơn nữa lệnh cấm vận nhưng không dỡ bỏ hoàn toàn, hay lúc này có
thể loan báo một vài cuộc giao dịch dưới quyết định dỡ bỏ một
phần, và để lại việc thay đổi chính sách cho sau này. Tuy nhiên, điều
không thể tranh cãi là, cho dù có dỡ bỏ hoàn toàn, Washington vẫn có
thể vừa thực hiện những lợi ích tượng trưng và thực chất, vừa giải
quyết những mối lo ngại hợp lí của một số người. Và kết quả là,
sẽ có ít lí do để di vật này còn lại nguyên chỗ cũ, khi mà cả hai
phía cùng nhìn về tương lai.
P. P.
Dịch giả gửi BVN.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment